30/10/07

Trang phục các dân tộc Việt Nam

Trang phục của các dân tộc Việt Nam hết sức phong phú và đa dạng, và mỗi trang phục lại mang những nét độc đáo và đặc trưng riêng cho từng vùng, từng miền, chẳng hạn ở vùng thấp miền núi, các dân tộc sống trên những nếp nhà sàn thường mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô típ hoa văn mô phỏng hoa rừng, thú rừng. Ở vùng núi, cao nguyên phụ nữ thường mặc váy, nam giới đóng khố...Song nhìn chung trang phục của các dân tộc được trang trí hoa văn sặc sỡ hài hoà về màu sắc, đa dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận cho lao động trên nương, tiện cho việc đi lại trên đường đèo dốc.
Cùng với những bộ váy áo do đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn thẩm mỹ của các thiếu nữ dân tộc tạo ra thì những bộ đồ trang sức như các loại hoa tai, vòng tay, vòng cổ bằng đồng, bạc, dây cườm không thể thiếu được trong trang phục của người dân tộc

Truyền Thống Tôn Sư Trọng Đạo Của Người Việt

Người Việt Nam, trong lời ǎn tiếng nói dân gian và những khúc hát ru của mình, đã truyền miệng cho nhau từ đời nay sang đời khác những lời dăn dạy con cháu về truyền thống tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn.
Hai cặp lục bát dưới đây đã thấm vào lòng chúng tôi từ thuở còn nằm nôi, chính là một trong những lời ru - ca dao - tục ngữ cài đan, lồng ghép, tạo nên sự đa thanh, đa nghĩa, biểu cảm lạ lùng.
"Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo
Muốn sang thì bắc Cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"
Hai câu trên rõ ra lời ru con - lời ca dao yêu thương, ngậm ngùi, kể lể. Mẹ bồng con đi dọc bờ sông vắng. Muốn sang sông nhưng: "Đò đục quan cấm, đò ngang không chèo". Mẹ than cùng con, mẹ than đời mẹ. Giọng giãi bày, nghẹn ngào, ấm ức.
Hai câu dưới, hiển nhiên là tục ngữ nối theo, kết tinh bao trải nghiệm đắng cay suốt cuộc đời nổi nênh của mẹ. Có người hiểu câu 3: muốn sang trọng thì bắc cầu đẹp (lộng lẫy). Một số ý kiến khác: muốn sang (qua) sông thì phải bắc (làm) cầu để qua. Đặt trong vǎn mạch cả 4 câu. Chúng tôi nghiêng về cách kiểu thứ 2. Từ "sang" (động từ ) ở câu này đồng nghĩa cùng loại với từ "sang" trong câu đầu. Bởi mơ ước suốt đời của rmẹ là đứa con được sang bờ bên kia, vượt thoát dòng sông mênh mông đói nghèo, dốt nát.
So với nhiều câu tục ngữ nói về thầy (không thầy đố mày làm nên, một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy, cơm cha, áo mẹ công thầy..v..v..) hai câu này mượt mà duyên dáng hơn. Trong hình thức lục bát, nối tiếp tự nhiên từ hai câu ca dao giàu âm thanh (bồng bồng), hình ảnh (mẹ bế con đò dọc, đò ngang, cầu kiều...), tuy là lời ru lúc ẵm con mà chở nặng lời mẹ dạy con từ sớm, từ xa, người ta có thể truyền trao kinh nghiệm sống, ứng xử, nhưng để có học thức, có vǎn hoá, (hay chữ) nhất định không thể thiếu được vai trò của ông thầy.
Đó là lời bà mẹ Việt Nam nghèo, đảm đang, đặt cả niềm tin vào vị thế người dạy con mình, dẫu đời bao ngang trái, vẫn kiên dũng bắc cầu cho con qua sông, vượt lên nghèo đói lạc hậu.
Vậy, chỉ còn cách "bắc cầu mà nối", vì "dốt phải đi tìm thầy"! Không nên hiểu "sang" ở đây là "giàu sang" thì bắc "cầu kiều" (đẹp). Đây cũng chẳng phải là chiếc cầu nổi (phù kiều) hoặc trùng lặp ("cầu" - "kiều" chữ Hán). "Cầu Kiều" là chiếc cầu cao ("kiều", tiếng cổ còn có nghĩa là "cao") để cho đò dọc, đò ngang đều qua lại được. Cần phải cao, chắc để con bước lên đường học tập vững vàng.
Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, "Không thầy đố mày làm nên", thậm chí "dốt nát đến đâu, học lâu cũng biết". Ở đây từ "thầy" chỉ có nghĩa người dạy học (thầy đồ, thầy giáo) - tấm gương mẫu mực. sáng ngời về đạo đức, học thức. Muốn thành người, muốn chữ tốt vǎn hay ắt phải tìm đến với thầy. Ở xứ sông nước này, bắc cầu cũng cần như cần ǎn, học, làm lụng (chính nhà giáo - nhà thơ hiền triết Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã bắc hai chiếc cầu Nghênh Phong và Trường Xuân khi lui về ở ẩn). Thế kỷ này con cháu bắc cầu qua sông Hồng, sông Mã, sông Gianh, sông Hương rồi sẽ qua sông Tiền, sông Hậu. Muốn sang sông phải biết bắc cầu. Muốn học hành thành đạt, phải yêu quí sự uyên bác và lòng yêu trẻ của thầy. Cái lý tự nhiên giản đơn là vậy.
Cả hai câu đều kết cấu theo kiểu quan hệ điều kiện - giả thiết: Muốn A thì B. Nhưng kết luận sau thiên về giá trị tinh thần (yêu thầy). Từ "lấy" trong "lấy thầy" không bao giờ hàm ý "lấy làm chồng", mà chỉ biểu thị hướng của hành động nhằm mang lại kết quả thiết thực. Tất nhiên không phải là lấy được, lấy lệ. Giáo sư Nguyễn Thạch Giang cho biết có bản ghi là phải yêu lòng thầy. Chúng tôi nghĩ là có lý, đỡ gây hiểu lầm, nghĩa là yêu quý tấm lòng cao cả của thầy bằng cả tấm lòng. Xin chớ hiểu là lấy lòng, cho vừa lòng thầy, nịnh thầy.
Từ ý câu tục ngữ, chúng tôi nghĩ về "Tam giác sư phạm" Thầy - trò (con trẻ) - kiến thức (chữ); rộng hơn là mô hình liên kết giáo dục: gia đình - nhà trường, xã hội. người bình dân xưa đã hiểu sâu vai trò truyền bá đạo lý, trí thức, lễ và vǎn của các nhà giáo, đồng thời cũng biết thắt chặt mối liên hệ giữa các thành phần giáo dục.
Bốn câu mẹ ru con hay tự nói với mình? Mẹ nói với ta: người thầy rất xứng đáng được kính yêu vì là người chỉ đường, dẫn lối, giáo dục, giáo dưỡng mình hiểu biết, lao động, biết sống đẹp theo lẽ phải của cộng đồng, biết tự khẳng định. Còn mãi lời ru, lời biết ơn tất cả những ai hết lòng vì sự nghiệp đào tạo, giáo dục! Còn có giáo dục thì còn có thông minh, vǎn hoá, phát triển! Còn mãi trong ta, dẫu học đã thành, danh lập, vẫn nhớ về lời ru - giao thoa, hài hoà tục ngữ, ca dao .

Mầu sắc với truyền thống văn hóa dân tộc Việt

Ở mỗi dân tộc việc vận dụng mầu sắc có tập quán khác nhau. Thí dụ ở các nước phương Tây, mầu đen là mầu tang tóc, còn ở Việt Nam và các nước phương Đông thì phổ biến màu tang là mầu trắng.
Mầu sắc còn mang đặc trưng sắc thái của các tầng lớp xã hội khác nhau: Thí dụ mầu vàng là của vua, từ các quan đại thần cho đến thường dân, cấm không ai được mặc quần áo hoặc xây dựng nhà cửa màu vàng. Mầu tím là sắc phục của các quan đại thần. Mầu điều, mầu đỏ dành riêng để tế thần và làm sắc phục cho các cụ thượng thọ. Mầu nâu sòng là của cửa Thiền dành cho những kẻ quy y Phật tổ, cũng như mầu đen là sắc phục của linh mục đạo Ky-Tô. Mầu xanh là của những người còn theo đòi Cửa Khổng sân Trình, của học trò chưa đậu đạt.
Trong bài thơ La-sơn phu-tử Nguyễn Thiếp gửi Tiến sĩ Nguyễn Khản có câu:
Quân kim bào hốt trung triều sĩ,
Cố ngã lâm tuyền khâm thượng thanh...
(Có nghĩa là: Nay ngài đã là khanh tướng trong triều, mà còn nhớ đến bạn học ngày xưa áo vẫn xanh). "Áo vẫn xanh" tức là chưa hiển đạt, vẫn còn là bộ quần áo của người hàn sĩ. Mầu đào tức mầu hoa đào là của các nàng ca sĩ, cho nên mới có danh từ "Hát ả đào".
Mầu đen, mầu nâu là trang phục rẻ tiền nhất của quần chúng nông dân. Mầu xanh nhập nội từ đất nước Trung hoa sau giải phóng gọi là xanh công nhân.
Ở Việt Nam, từ xưa tới nay, mầu đỏ, màu vàng, màu hồng, dùng trong trướng đối chỉ dành để chúc tụng, khao lão, mừng rỡ, còn trong lễ tang chỉ có thể dùng mầu trắng, mầu xanh, mầu đen, mầu tím... không hiểu vì sao, gần đây nhan nhản ở các cửa hàng, trướng điếu (lễ tang) cùng dùng mầu đỏ, mầu vàng rực rỡ, phải chăng các cụ già chết là đáng mừng, không cần phải an ủi, lưu luyến, nên chẳng cần dùng mầu đen, trắng, xanh, tím như ngày xưa. Vì thế mới xẩy ra câu chuyện oái oăm: Có người đi mừng ông ban 70 tuổi lại mua một bức trướng điếu mầu đỏ thêu 4 chữ vàng "Tiên cảnh nhàn du", có khác gì chúc cho bạn mình mau chết để chóng được lên dạo chơi trên cảnh Bồng Lai. Nguyên "Tiên cảnh nhàn du", (Nghĩa là thanh nhàm dạo chơi trên cảnh tiên) là để an ủi người mới mất từ nay hết nợ trần gian lên hưởng cảnh tiên

Mâm Cỗ Cúng Tổ Tiên Của Người Việt

Mâm cỗ ở nơi này hay nơi khác trong cả nước có khác nhau về hình thức nhưng vẫn biểu hiện lòng thành kính thiêng liêng dâng lên tổ tiên, để con cháu thấy đó mà nhớ đến nguồn cội ông bà, tâm niệm tấm lòng hiếu thảo với gia đình, với xã hội…
Năm hết Tết đến dù ai muốn mua gì, sắm gì trước sau cũng tập trung vào mâm cỗ Tết. Cách nay chừng năm thập kỷ từ thành thị tới nông thôn, dù giầu dù nghèo thì cũng cúng đủ 4 ngày Tết. Nhà giầu thì mâm cỗ làm đủ mười món, nhà nghèo thì cũng có cái chân giò và hương hoa thắp trọn 4 ngày Tết.
Phong tục này được lưu truyền từ trên 2000 năm cho tới nay. Khi mâm cỗ ngày Tết được hoàn tất, người ta thấy từng món ăn thể hiện đầy đủ hồn dân tộc, những món ăn sang quý truyền thống của ông bà xưa được phục hồi, được sáng tạo, là dịp cho những ai đến dự cỗ trực tiếp tìm hiểu lịch sử cha ông từ văn hóa ăn uống và nghệ thuật nấu nướng qua mâm cỗ Tết của dân tộc Việt. Không có mâm cỗ nào của người Việt Nam là không được những người làm bếp bày tỏ tình cảm trân trọng dân tộc của mình bằng kỹ năng chế biến các món ăn một cách nghiêm túc đến mức cầu kỳ như vậy. Thậm chí trong khi nấu cũng kiêng không nếm sợ bất kính với tổ tiên. Người làm bếp giỏi chỉ cần ngửi hương vị thức ăn là có thể biết được đậm nhạt. Nếu muốn thử thức ăn chín tới hay quá mềm chỉ dùng đũa thử là biết. Khi đi chợ người mua cẩn thận từ cách chọn cây rau tươi ngon, cách lựa chọn gia cầm, ví như gà cúng giao thừa nhất thiết phải là trống hoa chưa "toòng teng" gì với bạn mái để cúng gia tiên. Nếu gia cảnh còn khiêm tốn thì lựa chọn một cái chân giò thật ngon cũng được. Gà để nấu là loại gà đã có con rồi nhưng chưa có cháu, nghĩa là chưa già, không béo quá thì thịt mới ngọt, nấu mới mềm. Những loại rau, củ, qủa cũng được lựa chọn thật kỹ lưỡng để nấu các món hạnh nhân, món xu hào nấu nấm tôm nõn, xu hào hoặc xúp lơ xào bóng rồi những món nấu đông, măng lưỡi lợn nấu chân giò, giò thủ, nem rán, bánh chưng xanh, dưa hành bên đĩa sôi gấc màu hoa hiên rực rỡ. Cơm cúng thường được nấu từ gạo dự, bây giờ giống gạo đó đã bị mai một thì gạo tám thơm được thay thế, là những món ăn không ngán, nhìn không nhàm và… cũng không được phép ngán, không được phép nhàm chán trong ngày đầu năm.
Cũng vì một niềm khát vọng nhớ mâm cỗ Tết mà những người con, người cháu dù công tác hay học hành ở miền xa xôi nào, dù tàu xe khó khăn đến đâu cũng ráng thức đêm thức hôm mua được tấm vé để về dự. Cũng vì mâm cỗ cúng tổ tiên ngày Tết mà không ít Việt xa quê hương vượt xa hàng vạn dặm để về quê hương. Để được chắp tay trong khói nhang trầm, để được khấn nguyện chân thành trước bàn thờ gia tiên, để được thấy những sắc màu của dân tộc mình trên mâm cỗ ngày Tết. Được giao hòa trong tình cảm gia đình dưới mái ấm, bởi tình cảm ấy không thể mua được bằng đồng mỹ kim trên sứ người. Bởi chỉ có người Việt hiểu rõ hơn ai hết về chân giá trị mâm cỗ Tết của người Việt Nam, mâm cỗ ngày Tết không cho phép lai căng bất cứ dân tộc nào để tỏ lòng thành kính sâu sắc và thiêng liêng với tổ tiên.
Sau khi cúng tổ tiên và cúng gia tiên, dự với mâm cỗ trong ngày Tết, từ người lớn tuổi cho tới đứa trẻ nhỏ tuổi nhất cũng đều khoác trên mình trang phục đẹp nhất. Ngồi với mâm cỗ, mọi người sẽ được lắng nghe đầy đủ cung bậc cảm xúc của người thân, được hiểu biết mọi thông tin vui, lạ mà những thông tin đại chúng chưa biết tới. Con cháu tụ hội quanh mâm cỗ ngày Tết không đơn thuần được thưởng thức miếng ngon xưa ông, bà, cha, mẹ đã từng nấu mà còn là cơ hội được chứng tỏ mình vẫn tròn chữ hiếu, không làm rơi rớt chữ lễ và không làm mai một chữ nghĩa. Dù con đường mưu sinh gập gềnh, khúc khuỷu mình vẫn không thể dừng chân, bởi dừng lại là mình sẽ lạc hậu mà mình vẫn phải tự rượt đuổi chính mình trên thương trường.
"Làm người hữu tử hưu danh/ Sống lo xứng phận, thác đành tiếng thơm", cho nên, chính gia đình là nơi mình tìm lại chính mình. Bởi gia đình là nơi bắt đầu nguồn sống và đào tạo cho mình là con người hoàn chỉnh để trở lại phục vụ cuộc sống. Gia đình cũng là nơi giúp cho mỗi người tự hoàn thiện mình, giúp cho mình giữ được chữ thiện, chữ tâm làm gốc. Đó là nguyên nhân mà mọi thành viên trong gia đình luôn luôn trở về dưới mái ấm trong ngày Tết cổ truyền để được quây quần bên mâm cơm cúng gia tiên .
Dù là mâm cỗ của người Việt có khác nhau về hình thức của từng vùng miền nhưng vẫn biểu hiện lòng thành kính thiêng liêng dâng lên tổ tiên, để con cháu thấy đó mà nhớ đến nguồn cội ông bà, mà tâm niệm với tấm lòng hiếu thảo với gia đình, với mọi hành động và việc làm của mình với xã hội. Để rồi cứ luân hồi, năm hết Tết đến mọi người lại trở về với mâm cỗ ngày Tết thân thuộc từ hàng ngàn xưa tới nay, đã chiếm một vị trí quan trọng trong mỗi gia đình dân tộc Việt Nam.

Cội Nguồn Việt

Quê hương chưa hẳn là nơi ta sinh sống dài lâu nhất. Đối với những nông dân sớm rời xa đồng ruộng mong tìm cuộc sống ấm êm hơn nơi đất khách quê người, hoặc những chàng trai ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc từ thuở vị thành niên, thời gian sống ở quê hương đối với họ đôi khi gói gọn trong những tháng ngày náo nức tuổi ấu thơ. Nhưng bất luận với ai, quê hương luôn luôn hiện hữu, và càng đau đáu hơn trong lòng người xa xứ.
Cũng tương tự mối tình đầu, nào ai đã ăn ở với ai, sớm cách ly biền biệt, vậy mà làn hương toả ra từ mái tóc người thương một thời xa vắng vẫn đeo đẳng người thương mãi tới lúc đầu bạc răng long.
Mỗi người giữ hình ảnh quê hương trong lòng theo mỗi cách. Đối với người nghệ sĩ, đó là chùm khế ngọt trong vườn, là vành nón nghiêng che của mẹ, đối với nhà thơ, là ấn tượng về "những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ/ những đồi sim không đủ quả nuôi người"... (Thơ Chế Lan Viên).
Đối với tôi, quê hương là tiếng hò, khi nồng thắm thiết tha, khi dập dồn tiết tấu cần lao. Làng tôi không có đầm rộng sông dài, vắng tiếng hò mượt mà sóng nước như ở phá Tam Giang, song vẫn có những câu hò đối đáp giữa những người đêm thanh dắt trâu đạp lúa ngày mùa. Không có nữ, toàn những lực điền làm việc tới khuya, mỗi người lụi cụi một sân lúa không ai nhìn thấy mặt ai ngoài con trâu làm bạn. Vậy mà khi ai đó cất lên câu hò ân tình, hơi xô tưởng biệt tăm trong cô đơn thanh vắng, vẫn có một bạn nào đó trên một sân lúa hoặc gần hoặc xa lắng tai. Và khi người xướng dứt lời, người kia sẽ cất lời đối lại. Nếu người khởi cất giọng hò theo ý của bên trai, thì người đáp sẽ đóng vai bên gái, và ngược lại. Cũng có thể, từ một sân đâu đó ở xóm xa, sẽ cất lên một lời phụ hoạ. Và con trâu, người bạn thuỷ chung trong khi vẫn kiên nhẫn đếm từng bước chậm rãi trên dàn gồm những bó lúa tươi tựa vào nhau như mâm xôi khổng lồ, hình như nó cũng đang vểnh đôi tai. Tiếng hò ân tình kéo dài từ đầu hôm cho đến lúc tàn canh, khi sân lúa đã "chín", lúc này người và trâu đều đã mệt nhoài. Hò từ đầu hôm, hò mãi đến khuya. Để chống chọi cái ngủ chực ập đến sau ngày dài làm việc dưới nắng chang chang. Để quên đi nhịp lao động đơn điệu, dễ nản lòng trên mảnh sân ngai ngái mùi rơm rạ tươi và mùi lúa vừa chín tới...

Đối với tôi, quê hương còn là tiếng hò đập bắp những đêm Hè. Làng tôi có bãi trồng ngô ở Ba Lòng, thượng lưu sông Thạch Hãn. Trong kháng chiến chống Pháp bãi bắp làng Thượng là một nguồn lương thực của chiến khu. Thuở thanh bình, hàng năm cứ đến mùa gió Lão nổi, dân làng đưa thuyền ngược sông bẻ bắp; những chiếc "nôốc" rõ to chở ngập mạn những bông bắp rực màu da cam thuận gió thuận nước xuôi về ngã ba Ngô Xá rồi từ đó theo dòng sông Vĩnh Định ngược lên bến xóm. Sân nhà nào nhà nấy đỏ rực bắp tươi. Bắp phơi qua mấy nắng, chờ đêm trăng người ta đổ lên một cái giàn có chân đỡ đặt chính giữa sân. Rồi bên nam bên nữ ngồi trên hai hàng ghế đối diện, mỗi người cầm một chiếc gậy ngắn cùng đập bắp theo nhịp rập ràng. Hò khoan dô khoan... nhịp hò cần lao ngắn gọn, dập dồn, những hạt ngô theo nhịp đập mà rụng xuống rào rào, và cùng tiếng hò lan theo ánh trăng. Trai gái các làng lân cận nghe câu hò mời gọi, tìm đến đập giúp, không ai đòi công xá, chỉ cốt chia vui. Chủ chào đón thân tình, khích lệ khách chớ có ngại ngùng mình là người nơi xa vừa đến:

Đến đây đầu lạ sau quen,
Bóng trăng lạ mặt, bóng đèn lạ duyên...

Mọi người dịch lại, nhường khách một chỗ ngồi, và ai đó trao cho khách chiếc gậy. Khách khẽ nhịp vào thành giàn bắp và cất giọng lịch sự đón rào:

... Chào bên nam mất lòng bên nữ,
Chào người quân tử, bẽ dạ thuyền quyên
Cho tôi được chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào...

Quê hương thường xuyên níu kéo người tha hương. Dường như có ai đó từng ví tình cảm quê hương từa tựa sợi dây thun vô cùng bền vững. Khi bạn ở gần, sợi thun chùng lại, bạn không thường xuyên cảm thấy ràng buộc mà sợi dây vô hình vẫn giữ chặt bạn. Bạn càng đi xa, bạn mỗi năm thêm một tuổi, sợi dây vô hình thuận với không gian và thời gian, lại càng níu kéo. Bạn càng đi xa, càng lớn tuổi càng cảm thấy sức mạnh của sợi-dây-quê-nhà xiết chặt con tim.

Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi
Cội nguồn ơi chiếc lá lại rơi về.
(Thơ Nguyễn Đức Mậu)

Có thể chiếc lá rơi về cội. Cũng có thể nó cuốn theo chiều gió phương xa, để rồi sẽ nhẹ nhàng đáp xuống nơi chân trời xa xăm. Có thể rồi bạn sẽ yên nghỉ một góc nào đó trên đất nước hoặc trên hành tinh này. Nhưng chiếc lá vẫn về cội. Dù đi đâu về đâu, quê hương vẫn còn đó câu hò...

Làng - Nguồn Cội Của Người Việt

Làng từ ngàn đời nay là gốc rễ đất nước, là nguồn cội của mỗi người mà dấu vết của nó có thể đọc thấy ở những nét tâm hồn, ở lối sống, tiếng nói, phong tục... Dù ở đâu, làm gì thì mỗi người cũng từng từ một làng nào đó mà đi ra. Đến khi tuổi cao không làm việc nữa người ta lại muốn về làng. Những người sống xa làng khi nhắm mắt xuôi tay cũng muốn quay về yên nghỉ trên mảnh đất của làng. Những người Việt ở hải ngoại cũng ao ước được trở về để chết ở quê hương. Người ta yêu làng đến độ nói với nhau rằng: làng tôi, làng ta, làng mình. Sự ra đi và trở về làng của người Việt đều đáng quý, đều làm lợi cho đất nước, cho văn hoá làng Việt. Những danh nhân đất Việt từ Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Chu Văn An, Tản Đà... đều đã đi - về như thế.

Làng Việt lúa nước là đơn vị cơ sở bền chắc nghìn đời nay của kinh tế Việt Nam. ở đó, cây lúa, hạt thóc là biểu tượng của sự trù phú của làng, sự no ấm của người, là biểu tượng và thước đo sự hùng cường của quốc gia, dân tộc. Làng cũng có lệ làng còn gọi là hương ước cùng với phép nước (luật danh dự của làng, chào đón những người đỗ đạt vinh quy, coi đó là phúc trạch của làng. Lệ làng cũng tôn vinh những người có công với làng, với dân, với nước. Làng coi những người đó như những tấm gương để người đời ngưỡng vọng. Những người đó đã nâng cao danh dự của làng.

Dân số Việt Nam có tới 80% sống ở làng xã và làm nghề nông. Người ta học nghề bắt đầu từ làng. Trước hết là học làm ruộng để làm ra lúa gạo, hoa màu, trồng cây ăn quả, chăn nuôi gia súc, gia cầm, tức là học kỹ thuật và nghệ thuật của hai ngành chính trong sản xuất nông nghiệp là trồng trọt và chăn nuôi, đã có từ ngàn đời nay. Người ta học để biết tháng chạp (tháng 12 âm lịch) là tháng trồng khoai, tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà, tháng ba cày vỡ ruộng ra, hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng...Nghề nông là nghề gắn với thời tiết mà được mùa hay mất mùa, vì thế người ta học để biết chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì dâm. Rồi họ học thêm nghề mộc, nề, đan lát, gốm sứ, chăn tằm, ươm tơ, làm bánh... những thứ cần dùng cho mọi làng. Những lão nông tri điền và những thợ cả trong các ngành nghề chính là những ông thầy được kính trọng ở những làng Việt xưa nay. Rồi người ta lại học chữ để có văn hoá. Những người giỏi thì đi so tài, đi lập nghiệp ở mọi miền đất nước, để trở thành nhân tài của đất nước, làm nên chuyện phi thường, lưu danh bảng vàng, bia đá thì đó là niềm tự hào của mọi làng, của đất nước.

Ngoài tri thức, những kinh nghiệm sống thông thường của người Việt cũng đều được học từ làng: một sự nhịn là chín sự lành, chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa không đời nào khê...

Khi thương mại phát triển thì ngành nghề thủ công cũng phát triển làm nên những phường nghề sản xuất những mặt hàng đặc trưng của làng nghề. Không một phường nghề nào ở các đô thị Việt Nam lại không có gốc gác từ một làng nghề nào đó. Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng, gốm Phù Lãng, lụa La Khê, đúc đồng Ngũ Xã... đã làm nên phường Hàng Chiếu, Hàng Đào, Hàng Đồng, Hàng Bạc... của 36 phố phường Hà Nội cổ. Cho nên các tổ nghề rất được trọng vọng. Có thể nói, ngoài tục thờ tổ tiên, thành hoàng làng thì tục thờ các anh hùng dân tộc, thờ những người có công với làng xã, thờ các tổ nghề là những mỹ tục của người Việt.

Có thể nói, cha mẹ đã sinh ra mỗi người nhưng làng Việt, văn hoá làng Việt đã là cơ sở tạo nên tâm hồn, cốt cách mỗi người. Chính vì thế, khi nói đến một cá nhân nào đó học giỏi, có nhiều đóng góp về tri thức người ta thường nói người đó sinh ra ở một vùng đất có truyền thống hiếu học.

Kiến trúc làng Việt Nam

Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng quán quê hương. Hình ảnh làng quê Việt Nam có luỹ tre xanh, có mái nhà tranh, có người cày cấy đã trở nên rất thân thuộc trong tâm hồn người Việt Nam...
Từ rất xa xưa, người nông dân Việt Nam làm nhà là một trong 3 việc lớn của cuộc đời: Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà và có an cư mới lạc nghiệp, điều đó có nghĩa là chỗ ở có ổn định mới lo được sự nghiệp. Quan niệm ấy đến nay vẫn tồn tại, vì vậy, khi trưởng thành ai ai cũng lo cho mình một chỗ ở, một cơ ngơi riêng. Ðã bao đời nay kiến trúc ở nông thôn Việt Nam luôn đồng nghĩa với nét văn hoá làng, xã.

Lật lại những trang sử của ngành kiến trúc Việt Nam, người ta thấy rằng kiến trúc Việt Nam sớm ra đời, có thể xuất hiện từ thời vua Hùng dựng nước, cách nay khoảng 4000 năm. Làng xóm cũng xuất hiện vào thời kỳ này. Người Việt cổ lúc bấy giờ đã biết bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Trên các trống đồng có thể thấy 2 loại hình nhà sàn chủ yếu là nhà sàn hình thuyền và hình mai rùa.
Theo các nhà kiến trúc cho rằng làng xã Việt Nam có tính quần thể cao, có kiểu kiến trúc đơn giản nhẹ nhàng phù hợp với khí hậu và tập quán của người Việt Nam. Làng luôn được bao quanh bằng những luỹ tre xanh, sau luỹ tre xanh đó là những mái nhà tranh ấm cúng, cưu mang che chở cho con người. Hầu hết các nhà nông thôn điển hình đều xây dựng theo kiểu có dãy nhà trên và dãy nhà ngang thường là ba gian hai chái. Có sân trước, vườn sau dàn hoa cây cảnh. Bao quanh nhà là hàng rào cúc tần, hay hàng hoa dâm bụt. Có gia đình mà chủ nhà là người nho nhã thích cuộc sống thanh tao thì họ chau chuốt hàng rào cây xanh rất cẩn thận. Ngày ngày cắt tỉa, chăm sóc như một thú vui nhằm trang trí thêm cho phần ngoài ngôi nhà ấm cúng, lịch lãm. Trước đây, khi cuộc sống của người nông dân còn khó khăn, gia đình nào xây sân, bó hè bằng gạch Bát Tràng, trồng bên nhà một gốc mít chĩu quả - được coi là một gia đình nông thôn giàu có. Ngôi nhà của gia đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được bảo tồn gìn giữ tại làng Kim Liên, huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An, vẫn giữ nguyên nét kiến trúc điển hình của một ngôi nhà nông thôn Việt Nam như thế. Xưa hầu hết các nhà đều được làm bằng tranh tre nứa lá, gỗ. Nay, trong thời đại có tốc độ đô thị hoá nhanh, thì nhiều làng quê Việt Nam đã biến đổi có những dãy phố trong làng; phong cách xây dựng cũng theo kiến trúc đô thị mới.
Nhà ở của người nông dân Việt Nam ở các vùng khác nhau cũng có những nét đặc trưng khác nhau. Nếu ai có dịp đi dọc chiều dài đất nước, hẳn sẽ rất thú vị khi thấy rằng nhà cửa làng mạc ở Việt Nam tuy bình dị, dân dã nhưng không vùng nào giống vùng nào. Ðiều đó xuất phát từ điều kiện và hoàn cảnh sống của từng vùng, phản ánh cả tâm tính của con người của vùng đó.
Nam bộ ít có bão tố, lại nhiều kênh rạch, con người phải dồn sức vào chăm chút ghe xuồng và vườn tược, nhà cửa rất đơn sơ. Mấy cây que làm cột, làm kèo, một ít lá dừa nước vừa lợp mái vừa thưng vách.
Lên Tây Nguyên, nắng lửa, mưa ngàn, mái nhà được làm theo kiểu nhọn vút, kèo cột vững chãi, hoa văn và tượng gỗ trang trí cho nhà của người sống và nhà mồ của người chết.
Vùng miền Trung Việt Nam cát trắng, đất sỏi, gió Lào, mưa nhiều, bão lắm nên mái nhà thấp. Mái lợp dày, cột lớn. Chân cột kê đá tảng, mộng mạng chắc chắn như đúc, nhà có thể khiêng đi nơi khác mà không hư hỏng.
Ðồng bằng Bắc bộ là vùng đất cổ, làng cổ. Nhà cửa ý thức được truyền thống cha truyền con nối rất rõ. Nhà ngói, sân gạch, cây mít, tường vôi là một công thức để con người đủ yên tâm cho đời mình và cho con cháu đời sau.
Lên Tây Bắc, Việt Bắc xa biển gần rừng, sẵn mưa nhưng ít bão nên nhà sàn cao, mái doãng, lợp ngói máng (thứ ngói xếp tiếp vào nhau không cần ràng buộc). Hoặc lợp bằng những mảng gỗ pơ mu, gỗ hoàng la chẻ mỏng. Hầu như nhà nào cũng có một hàng rào nứa vót nhọn cao vây quanh để chống thú dữ.
Ở Huế, ngoài thành quách, thì nhà cửa có một nét rất đặc trưng mang tính cách Huế - đó là nhà vườn. Kiến trúc nhà vườn Huế độc đáo đã làm phong phú thêm cho bức tranh kiến trúc Việt Nam.

Giỗ Tổ Hùng Vương - Đạo Lý Của Người Việt

“Cây có cội, nước có nguồn”, mỗi người dân đất Việt, dù đi đâu về đâu cũng nhớ về cội nguồn dân tộc, cội nguồn của bao thế hệ con cháu Lạc Hồng. Để rồi cứ đến ngày mùng mười tháng ba hàng năm, tất cả con cháu lại tụ về Đền Hùng tri ân tổ tiên, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Mỗi tấc đất đi về với đất tổ đều trào dâng trong mỗi người cảm giác tự hào và rất đỗi thân thương. Hơn bất cứ dân tộc nào trên thế giới, người dân Việt Nam luôn tự hào là dân tộc có tín niệm sâu sắc nhất về giống nòi, tổ tiên. Các truyền thuyết về bọc trăm trứng, về dòng máu Lạc Hồng không chỉ gắn liền với chiều dài lịch sử của dân tộc, mà còn là biểu hiện sâu sắc nhu cầu cố kết cộng đồng, khát vọng tình cảm hướng tới sự đoàn kết quốc gia, được kết tinh bất diệt trong 2 chữ “đồng bào”.

Lễ hội Đền Hùng diễn ra từ ngày 6/3-10/3 Âm lịch (tức từ ngày 22-26/4/2007). Như thường lệ, chương trình được tổ chức theo hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ diễn ra trong 3 ngày (từ 8-10/3 Âm lịch), trong đó phần quan trọng nhất là lễ dâng hương, tưởng niệm các Vua Hùng (7h ngày 10/3) sẽ được tổ chức trang trọng, thành kính tại “Điện Kính Thiên”, ngay trên núi Nghĩa Lĩnh. Phần hội diễn ra trong năm ngày (từ 6/3 – 10/3), với nhiều hoạt động phong phú trên miền Đất Tổ linh thiêng, như diễn xướng dân gian, rước kiệu… đặc biệt là các tour du lịch gắn liền với chương trình “Về miền lễ hội các dân tộc Việt Nam” và “Du lịch về cội nguồn” của ba tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai.

Phần hội là màn trình diễn hết sức ấn tượng về đánh trống đồng, múa sư tử, hát xoan của các nghệ nhân, diễn viên xã Kim Đức (thành phố Việt Trì). Phần hội là khai mạc giải bắn nỏ, vật dân tộc tại sân thể thao số 2 tại trung tâm Di tích. Đặc biệt, không gian tổ chức lễ hội không chỉ giới hạn trong phạm vi Đền Hùng mà cả những vùng phụ cận như huyện Lâm Thao, Phù Ninh và các xã ven núi Nghĩa Lĩnh. Tại đây, các hoạt động văn hoá mang đậm màu sắc dân gian, huyền thoại sẽ được tái hiện.

Lễ hội Đền Hùng là quốc lễ , vì vậy quốc hội nước ta nhất trí cho người lao động trong cả nước được nghỉ và hưởng nguyên lương trong ngày Quốc giỗ.

Chữ Viết Của Người Việt

1. Chữ Hán
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ được số hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Điều này là một phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm và thực sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người Việt kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi. Đến thế ký VII - XI chữ Hán và tiếng Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được sử dụng như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương mại với Trung Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc Trung Quốc trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng chữ Hán có ảnh hưởng to lớn như thế nào đối với nền văn hóa của nước Việt Nam xưa. Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam.
2. Chữ Nôm
Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ thứ VI).
Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn "Thiền Tông Bản Hạnh". Đến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.
Chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa.
3. Chữ Quốc Ngữ
Việc chế tác chữ Quốc ngữ Việt Nam là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng Tên người Châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò của Francesco de Pina, Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre De Rhodes. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ 17.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt - Bồ - La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt - Bồ - La (1772), tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống mà chúng ta đang dùng hiện nay.
Tiếng Việt hiện nay có 6 thanh điệu ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng. Tiếng Việt tương đối khó phát âm cho người nước ngoài.
Ngày nay do sử dụng ký tự Latin (a, b, c,...) của chữ Quốc ngừ làm cho việc giao tiếp ngôn ngữ trên Internet trở nên dễ dàng hơn so với các bộ chữ tượng hình như chữ Nôm, chữ Hán...
4. Chữ Nước Ngòai :
Ngày nay xã hội phát triền , Việt Nam gia nhập WTO . Vì vậy người Việt đã sử dụng một số ngôn ngữ quốc tế như Anh , Pháp , Đức , Trung Quốc , Nhật , Hàn Quốc …

Lịch Sử Dân Tộc Việt

Một số người cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ Trung Hoa, hoặc Tây Tạng, một số khác cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa. Nhưng căn cứ vào các kết quả nghiên cứu gần đây, xem xét sự hình thành các dân tộc Việt Nam trong sự hình thành các dân tộc khác trong khu vực thì có thể nói rằng tất cả các dân tộc Việt Nam đều có cùng một nguồn gốc, đó là chủng Cổ Mã Lai. Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:
• Theo các nhà nhân chủng học, nếu phân chia theo hình dáng thì loài người được chia thành bốn đại chủng chính, đó là: Đại chủng Âu (Caucasoid), Đại chủng Phi (Negroid), Đại chủng Á (Mongoloid), Đại chủng Úc (Australoid, hay còn gọi là Đại chủng Phương Nam). Vào thời kỳ đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm trước đây), có một bộ phận thuộc Đại chủng Á, sống ở vùng Tây Tạng di cư về phía đông nam, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien). Người Cổ Mã Lai có nước da ngăm đen, tóc quăn gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ Mã Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướng bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía nam tới các đảo của Indonesia, về phía đông tới Philippines.
• Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5.000 năm trước đây). Tại khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique). Do hai lần hòa nhập với Đại chủng Á mà chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại chủng Á hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc. Cũng chính vì thế chủng Nam Á được liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á.
• Thời kỳ sau đó, chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Thực ra không có đến một trăm (Bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm: Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Lạc Việt (cư trú tại Quảng Tây, Trung Quốc và Bắc bộ Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho đến Bắc bộ (Việt Nam). Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như: Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, Mèo-Dao,... Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Trong khi đó, phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chàm (xem hình vẽ).
Việc xác định về mặt địa lý có thể hình dung như sau:
• Địa bàn cư trú của người Bách Việt: là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam (xem hình, tam giác màu đỏ).
• Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo: là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, đỉnh là đồng bằng sông Mê kông, Việt Nam (xem hình, tam giác màu vàng).
• Đại bàn cư chú của hậu duệ người Cổ Mã Lai, mà ngày nay là phần lớn các cư dân Đông Nam Á là một vùng rất rộng kéo dài từ Ấn Độ đến Philippines theo chiều tây đông, và từ sông Dương Tử xuống đến Indonesia theo chiều bắc nam.
Các dữ liệu mới chỉ tìm thấy cách đây vài chục năm như trên đã làm thay đổi cách suy nghĩ của các nhà khảo cổ học về sự tiến triển của các nền văn minh trên Trái Đất. Việc tìm thấy nền văn minh Đông Nam Á rất sớm đó có thể khẳng định các dân tộc ở vùng này là có liên hệ chủng tộc với nhau. Họ hoàn toàn không phải là hệ quả của các chủng tộc khác từ Trung Hoa tới.
Nguồn gốc dân tộc Việt bắt đầu từ họ Hồng Bàng. Vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương (vua nước Xích Quỷ - tức là Quỉ Đỏ) hiện còn có mộ tại làng An Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông lên làm vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trước Công nguyên) sau đó lấy bà Long Nữ (con gái Thần Long là vua Hồ Động Đình), sinh hạ được Sùng Lãm (lấy hiệu là Lạc Long Quân). Ông lấy bà Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh ra 100 trứng, nở ra 100 người con. Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt, hai ông bà đồng ý chia hai số người con; năm mươi người con theo mẹ lên núi, số còn lại theo cha xuống biển. Sau đó, nước Xích Quỉ chia thành nhiều nước gọi là Bách Việt. Một trong các nước nhỏ này là nước Văn Lang. Lạc Long Quân về sau phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương thứ 1, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phúc hoặc Phú Thọ). Dòng dõi Hùng Vương lưu truyền được 18 đời, đến đời Hùng Vương thứ 18 thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Một số nhà nhân chủng ngôn ngữ học đã xác định một số từ Trung Quốc có gốc rễ từ các từ Việt cổ, như "giang" (江), có nghĩa là sông (xem Dương Tử Giang). 越, 粵, 鉞 trong Hán văn cổ đều có âm là "việt" và cùng nghĩa có thể thay thế lẫn nhau được. Ngày nay 鉞 là "lưỡi rìu dùng trong nghi lễ" có thể tìm thấy rất nhiều ở Hàng Châu, Triết Giang là một phát minh phía nam Trung Quốc; 粵 là tên gọi tắt cho tỉnh Quảng Đông; còn 越 chỉ Việt (Việt Nam) hoặc khu vực bắc Triết Giang bao quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba.
Các tên gọi có thể có nguồn gốc phương Nam như Thần Nông, Nữ Oa vì không theo ngữ pháp tiếng Hán.
Các tập tục: ăn trầu, nhuộm răng, bốc mả...

Những chiến thắng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam

1. Chiến thắng Bạch Đằng nǎm 938
Sông Bạch Đằng là một nhánh sông dài hơn 20 km, từ Do Nghi đến Phả Lễ giữa Yên Hưng (Quảng Ninh) và Thuỷ Nguyên (Hải Phòng), nơi đã ghi dấu chiến công của Ngô Quyền chống giặc Nam Hán; chiến công của Lê Hoàn chống giặc Tống; chiến công của Trần Hưng Đạo chống giặc Nguyên Mông. Trong đó, trận thắng giặc Nam Hán vào nǎm 938 do Ngô Quyền chỉ huy là mốc son mở ra nền độc lập tự chủ của dân tộc ta.

Nǎm 931, Dương Đình Nghệ đǎ lãnh đạo nhân dân đánh đuổi được bọn quan quân Nam Hán là bọn Lý Khắc Chính và Lý Tiến ra khỏi nước ta. ông tự xưng là Tiết độ sứ đóng bản doanh ở thành Đại La.

Nǎm 937 Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nền độc lập của dân tộc ta vừa mới giành được sau đêm trường Bắc thuộc lại bị đe dọa. Kiều Công Tiễn hoảng sợ trước sự cǎm phẫn của nhân dân, đã cho người sang cầu cứu vua Nam Hán. Nhân cơ hội đó, Nam Hán đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Vua Nam Hán là Lưu Cung đã cử con trai là thái tử Hoằng Thao thống lĩnh quân thuỷ vượt biển tiến vào nước ta. Bản thân Lưu Cung cũng tự cầm quân đóng ở Hải Môn (Quảng Đông) để sẵn sàng tiếp ứng.

Cuối nǎm 938, Ngô Quyền (898-944), vị tướng giỏi đồng thời là con rể của Dương Đình Nghệ đã đem binh từ châu ái (Thanh Hoá) ra diệt Kiều Công Tiễn, trừ mối hoạ bên trong. Sau đó, ông huy động nhân dân cả nước khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán. Nắm vững tình hình cũng như đường tiến quân của địch, Ngô Quyền bàn với các tướng sĩ rằng: "Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được! Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua cũng chưa biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu và bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự không kế gì hay hơn kế ấy cả". Các tướng đều phục kế sách ấy là chắc thắng.

Ngay sau đó, Ngô Quyền đã huy động quân dân đẵn gỗ, đẽo cọc vát nhọn, bịt sắt cắm đầy lòng sông Bạch Đằng ở những chỗ hiểm yếu gần cửa biển tạo thành một trận địa ngầm, hai bên bờ có quân mai phục. Đó là một thế trận hết sức chủ động và lợi hại, thể hiện một quyết tâm đánh thắng quân giặc của chủ tướng Ngô Quyền và quân dân ta.

Hoằng Thao thống lĩnh thuỷ binh hùng hổ kéo vào cửa sông Bạch Đằng. Lúc đó nước triều đang lên ngập hết bãi cọc, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, dụ quân giặc từ vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng, rồi vờ thua chạy. Tên tướng trẻ kiêu ngạo Hoằng Thao mắc mưu, thúc quân chèo thuyền hǎm hở đuổi theo, vượt qua trận địa cọc ngầm của ta. Quân ta cầm cự với giặc. Đợi khi nước thuỷ triều rút xuống, Ngô Quyền hạ lệnh cho toàn quân đánh quật trở lại. Thuỷ quân giặc hốt hoảng quay đầu chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền địch đâm phải cọc nhọn, bị vỡ và bị đắm rất nhiều. Quân giặc phần bị giết, phần chết đuối, phần còn lại phải đầu hàng hoặc bị quân ta bắt sống. Toàn bộ đạo quân thuỷ xâm lược của Nam Hán, kể cả Hoằng Thao đã vĩnh viễn bị nhấn chìm xuống dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Vua Nam Hán đang điều quân sang tiếp viện cho con, nhưng nửa đường nghe tin Hoằng Thao chết trận, quân lính bị tiêu diệt gần hết, hắn kinh hoàng, khủng khiếp đành "thương khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư). Mưu đồ xâm lược của vua tôi nhà Nam Hán đã bị Bạch Đằng Giang nổi sóng cuốn chìm.

Hai tiếng Bạch Đằng đã đi vào lịch sử. Trong tâm thức nghìn nǎm của người Việt Nam, Bạch Đằng đã trở thành điểm hội tụ của sức sống dân tộc, đúng như lời ngợi ca của Phạm Sư Mạnh:
Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc nhật,
Giang san vương khí Bạch Đằng thâu.

Tạm dịch:
(Kỳ quan của Vũ trụ là Mặt trời lên tại hang Dương Cốc,
Khí thiêng của núi sông đọng lại ở chốn Bạch Đằng).
2.Trận Như Nguyệt (1-3/1077)
Sau thất bại cuối thế kỷ thứ 10, nhà Tống lại cố lao vào chuẩn bị chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Vì vậy, Lý Thường Kiệt đã chủ động đưa quân sang các châu Ung - Khâm - Liêm phá tan âm mưu của địch, rồi rút về nước chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc tiến công mới của chúng.

Lý Thường Kiệt đã phán đoán và đánh giá đúng cuộc tiến công của địch. Kế hoạch đối phó của ông là: đánh bại cánh quân đường thuỷ, không cho chúng hợp quân với đường bộ; bố trí lực lượng các đội thổ binh của Phò mã Thân Cảnh Phúc và lực lượng dân binh đánh chặn địch từng bước trên các cửa ải ở biên giới, và xây dựng chiến tuyến nam sông Như Nguyệt (sông Cầu) để phòng ngự, nhằm chặn đứng cuộc tiến công của quân Tống. Tại đây, quân ta đǎ thiết kế lại tuyến phòng ngự dài 80 km, xác định các khu phòng ngự then chốt, bố trí binh lực thành các lực lượng "trú chiến'' (phòng ngự tại chỗ) và "thác chiến'' (tiến công cơ động, làm nhiệm vụ phản kích, phản công).

Đúng như ta dự đoán, ngày 8-l-l077 quân xâm lược Tống tiến vào nước ta theo hai ngả ở biên giới phía Bắc và một ngả theo đường biển Đông Bắc. ở phía Bắc, quân địch đã bị các lực lượng thổ binh ta chặn đánh, vừa tiêu hao vừa làm trì hoãn bước tiến của chúng. Địch phải tiến quân vất vả, nhất là trước các cửa ải Quyết Lý, Chi Lǎng, và đến 18/l mới đến bờ Bắc sông Như Nguyệt, đóng thành hai cụm quân: cụm Quách Quỳ và cụm Triệu Tiết. Trong khi đó ở vùng biển Đông Bắc, quân thuỷ của ta do Lý Kế Nguyên chỉ huy đã đánh bật về phía sau đạo quân thuỷ của Dương Tùng Tiên, loại hẳn lực lượng này ra ngoài vùng chiến.

Sau khi tập trung lực lượng tiến hành trinh sát, một đêm đầu tháng 2 Quách Quỳ bắc cầu phao, tung kỵ binh vượt sông đánh vào trận địa ta. Chúng đột phá qua dải phòng ngự tiến về phía Thǎng Long, nhưng lập tức bị chặn lại khi cách Thǎng Long khoảng 8 km. Đồng thời ta tung kỵ binh đột kích cạnh sườn, địch bị rối loạn đội hình, một phần lớn bị tiêu diệt, phần còn lại vội vã tháo chạy về phía Bắc. Đợt tiến công của địch bị đẩy lùi.

Sau đó, Quách Quỳ định mở đợt tấn công thứ hai. Nhưng vì phương tiện thiếu, lại chỉ có thể vượt sông trên hai thuỷ đoạn hẹp (bến Thị Cầu và bến Như Nguyệt) nên cuộc tiến công thứ hai của chúng bị thất bại. Địch buộc phải chuyển vào phòng ngự lâm thời chờ cơ hội. Chúng bố trí thành hai tập đoàn: Quách Quỳ ở Bắc Thị Cầu và Triệu Tiết ở Bắc Như Nguyệt.

Nắm cơ hội địch đã bị tiêu hao, mệt mỏi, cạn đường tiếp tế qua hai tháng chiến đấu, Lý Thường Kiệt quyết định tung ra đòn phản công mạnh, nhằm kết thúc chiến tranh.

Một đêm tháng 3, 400 chiến thuyền của quân ta ngược dòng sông Như Nguyệt bất ngờ đánh vào cụm quân Quách Quỳ từ hướng Đông. Trong khi cụm quân này đang mải đối phó, Lý Thường Kiệt nắm đại quân vượt sông đánh thẳng vào cụm quân Triệu Tiết. Địch bị bất ngờ, bị ta chia cắt thành từng mảng và tiêu diệt. Thừa thắng, từ hướng Tây Bắc, Lý Thường Kiệt kéo chủ lực vu hồi vào đạo quân Quách Quỳ cách đó 30 km. Địch lại một lần nữa bị bất ngờ, phải đối phó trên hai hướng, và cuối cùng phải phá vây chạy về phía Bắc. Đạo quân của Thân Cảnh Phúc chặn ở Chi Lǎng, cận đại quân ta phía sau truy kích theo. Địch bị tiêu diệt đại bộ phận và buộc phải rút hết quân về nước.

3. Ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1258 - 1285 - 1288)
Trong thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công vĩ đại: ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông xâm lược.

Lần thứ nhất xảy ra vào tháng Giêng nǎm 1258. Bấy giờ, vua chúa Mông Cổ đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm Trung Quốc. Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng bốn vạn người, gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uryangquadai) chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần là Thái Tông đã đem quân lên chặn giặc ở Bình Lệ Nguyên, bên sông Cà Lồ. Nhưng sau đó, quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng trước thế mạnh ban đầu của giặc.

Quân ta rút lui, bỏ Thǎng Long lại phía sau, nhưng Triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng. Vua tôi nhà Trần đã bàn phương lược đánh giặc trên những con thuyền xuôi sông Hồng. Khi được Thái Tông hỏi ý kiến, Thái sư Trần Thủ Độ đã trả lời: ''Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".

Giặc đóng ở Thǎng Long, trong một toà thành trống, đã khốn đốn vì thiếu lương thực. Chúng cố đánh ra xung quanh để cướp lương thực, nhưng ở đâu cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân. Vì vậy mà chỉ sau 9 ngày, chúng đã vô cùng hốt hoảng. Đó chính là thời cơ để quân ta phản công. Ngày 29-l-1258, Vua Trần Thái Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thǎng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi Kinh thành, theo đường cũ, chạy về Vân Nam. Trên đường tháo chạy, chúng còn bị quân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi tập kích, đánh cho tan tác.

Sau lần thất bại đó, bọn vua chúa Mông Cổ vướng vào cuộc nội chiến (1259 -1264) và cuộc chiến tranh với Tống (1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến nǎm 1279, nhà Tống mất, toàn bộ đất Trung Quốc đǎ nằm dưới ách thống trị của nhà Nguyên, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt (Quibilai) mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Sau khi không thể khuất phục được Đại Việt bằng những sứ bộ ngoại giao, cuối nǎm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan (Toan), con trai Hốt Tất Liệt, và A Lý Hải Nha (Ariquaya) chỉ huy, đã lên đường, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai.

Lần này, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, Vua Nguyên còn sai Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasirud Din) đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào mặt Tuyên Quang, và ra lệnh cho Toa Đô (Sogatu) đem đạo quân còn đóng ở Bắc Chǎmpa, đánh vào mặt Nam của Đại Việt.

Sau một vài trận đánh chặn giặc ở mặt Lạng Sơn và Tuyên Quang, trong tháng 2/1285, quân ta lại rút lui và lần nữa bỏ trống Thǎng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên (Ninh Bình). Và để tránh cái thế bị kẹp vào giữa các gọng kìm của giặc, đại quân và Triều đình chờ cho cánh quân của ba Đô tiến đến Trường Yên (Ninh Bình) thì rút vào Thanh Hoá. Trong khi một bộ phận lớn quân chủ lực rút, thì khắp nơi, quân địa phương và dân binh các lộ, phối hợp với các cánh quân nhỏ của Triều đình để lại đã không ngừng tập kích, tấn công vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch ''vườn không nhà trống" được toàn dân thực hiện. Giặc đóng quân phân tán, thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến, lại giáng lên đầu chúng những tai hoạ mới. Sử Nguyên chép: "Bệnh dịch hoành hành... Nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại... ". Thời cơ phản công của quân ta đã tới. Tháng 5/1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc. Kế hoạch diệt địch như sau: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên phòng tuyến sông Hồng, còn Hưng Đạo Vương, đem quân vòng qua vùng Hải Đông, tiến lên Vạn Kiếp, chặn đường tháo chạy của địch. Cục diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên giải phóng Thǎng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố mở đường máu tháo chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên đại tướng Lý Hằng đi đoạn hậu, bị tên độc trúng đầu gối, về đến Tư Minh thì chết.

Trong khi cánh quân Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh tìm đường tẩu thoát về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích, đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy, Toa Đô kéo ra Bắc, theo sông Hồng định về Thǎng Long, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta chặn đánh. Toa Đô bị chém. Thế là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai hoàn toàn thất bại.
Ngay sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đǎ ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nhưng phải đến cuối nǎm 1287, các đạo quân viễn chinh mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và áo Lỗ Xích (Agurucxi) chỉ huy tiến vào Lạng Sơn. Một đạo khác, do ái Lỗ (Airuq) cầm đầu, từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang. Lần này, không còn cánh quân phía Nam, nhưng Vua Nguyên lại phái thêm một cánh thuỷ quân, sai ô Mã Nhi (Omar) chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Vǎn Hổ vào Đại Việt theo đường biển.

Tháng 12/1287, khi đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Ninh), Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thuỷ quân chặn đánh, nhưng không cản được giặc. ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa sông Bạch Đằng, không chú ý đến đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1/1288, đoàn thuyền lương của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Đồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương Vǎn Hổ chống đỡ không nổi, đổ cả lương thực xuống biển, trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu (Hải Nam). Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với cánh quân thủy của ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng lại ở đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một cǎn cứ vững chắc, mãi đến cuối tháng 1/1288 mới chia quân tiến về Thǎng Long.

Lần thứ ba, quân dân nhà Trần lại bỏ ngỏ Thǎng Long. Quân Nguyên vào Thǎng Long ngày 2/2/1288. Ngay sau đó, Thoát Hoan vội sai ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển đón thuyền lương của Trương Vǎn Hổ. Nhưng thuyền còn đâu nữa. Không có lương thực, đạo quân Thoát Hoan đóng ở Thǎng Long lâm vào tình thế khốn quẫn.Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Trên đường rút về Vạn Kiếp, giặc bị quân ta chặn đánh ở cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược vẫn bị quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên đã nói với Thoát Hoan: ''ở Giao Chỉ, không có thành trì để giữ, không có lương thực đủ ǎn, mà thuyền lương của bọn Trương Vǎn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên bảo toàn quân mà về thì hơn" Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường: cánh quân bộ rút qua vùng Lạng Sơn, còn cánh quân thuỷ sẽ rút ra biển theo sông Bạch Đằng.

Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thuỷ quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch.

Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Giặc định áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yểm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hắt xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xảy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Cho đến giờ dậu (5-7 giờ tối), toàn bộ đạo quân thuỷ của giặc bị tiêu diệt. ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó, đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Đan Ba (Đình Lập), chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây, chúng cũng bị quân ta chặn đánh, tướng giặc là A Bát Xích (Abaci) bị trúng tên. Mãi đến ngày 19/4/1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh.

Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt.

Vài nét về kết quả và nghệ thuật quân sự trận Bạch Đằng (9/4/1288)

Trong trận này, 8 vạn thuỷ quân và 400 thuyền chiến của địch đã bị ta tiêu diệt. Nghệ thuật quân sự của quân dân thời Trần là phối hợp chặt chẽ giữa quân đội nhà vua (chủ lực) và dân binh địa phương. Trong tác chiến đã sử dụng hình thức phục kích để tiêu diệt địch. Về chiến lược, chiến thuật: chọn đạo quân thuỷ của địch làm đối tượng tiến công, tiêu diệt trước và chủ yếu; đó là một quyết tâm rất chính xác vì so với đạo bộ binh chủ lực, thì số lượng đạo quân thủy ít hơn, không giỏi chiến đấu bằng và phải tốn nhiều công sức xây dựng.

Quãng sông Bạch Đằng, nơi được chọn làm địa điểm tác chiến là một khu vực hiểm yếu có đủ những điều kiện cần thiết, đáp ứng được yêu cầu bố trí một trận mai phục trên sông với quy mô lớn.

Tuy vậy, muốn khai thác triệt để những điều kiện thuận lợi trên, còn cần phải có một nghệ thuật tác chiến rất cao, như tìm cách cô lập hoàn toàn đạo quân thuỷ của ô Mã Nhi với đạo bộ binh chủ lực của Thoát Hoan, tách rời đạo kỵ binh đi yểm hộ và dần dần điều động đạo quân thuỷ này từng bước lọt vào đúng trận địa mai phục, theo đúng thời gian đã được xác định. Bởi vậy, đạo thuỷ quân địch dù đông tới 8 vạn tên, được đề phòng rất cẩn mật, nhưng vẫn gặp nhiều bất ngờ, lúng túng buộc phải bị động đối phó từ đầu đến cuối, và kết qủa là bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiến thắng Bạch Đằng còn là kết quả của sự phối hợp tác chiến có hiệu quả cao giữa thuỷ quân và bộ binh, giữa quân chủ lực với các đội dân binh, giữa các lực lượng tham chiến về thời gian và không gian.

Thế là trong vòng ba mươi nǎm, quân dân ta đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất của thời đó, bảo vệ quyền độc lập tự chủ của đất nước, góp phần bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam á.

Sức mạnh để làm nên chiến thắng là khối đoàn kết toàn dân như Trần Hưng Đạo đã nói, đó là ''vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức". Chính nhờ khối đoàn kết đó mà một cuộc chiến tranh nhân dân, ''cả nước đánh giặc ", "trǎm họ là binh", mới có thể thực hiện. Và sau cùng, nguyên nhân sâu xa hơn của chiến thắng là sự ổn định kinh tế - xã hội thời Trần, được tạo ra từ đường lối "lấy dân làm gốc".

Nói đến những chiến công chống xâm lược thời Trần, chúng ta không thể không nhớ tới câu nói tuyệt vời của Trần Hưng đạo: ''Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước''.
Ngay sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đǎ ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nhưng phải đến cuối nǎm 1287, các đạo quân viễn chinh mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và áo Lỗ Xích (Agurucxi) chỉ huy tiến vào Lạng Sơn. Một đạo khác, do ái Lỗ (Airuq) cầm đầu, từ Vân Nam đánh vào Tuyên Quang. Lần này, không còn cánh quân phía Nam, nhưng Vua Nguyên lại phái thêm một cánh thuỷ quân, sai ô Mã Nhi (Omar) chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Vǎn Hổ vào Đại Việt theo đường biển.

Tháng 12/1287, khi đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Ninh), Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem thuỷ quân chặn đánh, nhưng không cản được giặc. ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến thẳng vào cửa sông Bạch Đằng, không chú ý đến đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng 1/1288, đoàn thuyền lương của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Đồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích. Trương Vǎn Hổ chống đỡ không nổi, đổ cả lương thực xuống biển, trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về Quỳnh Châu (Hải Nam). Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với cánh quân thủy của ô Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng lại ở đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một cǎn cứ vững chắc, mãi đến cuối tháng 1/1288 mới chia quân tiến về Thǎng Long.

Lần thứ ba, quân dân nhà Trần lại bỏ ngỏ Thǎng Long. Quân Nguyên vào Thǎng Long ngày 2/2/1288. Ngay sau đó, Thoát Hoan vội sai ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển đón thuyền lương của Trương Vǎn Hổ. Nhưng thuyền còn đâu nữa. Không có lương thực, đạo quân Thoát Hoan đóng ở Thǎng Long lâm vào tình thế khốn quẫn.Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Trên đường rút về Vạn Kiếp, giặc bị quân ta chặn đánh ở cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược vẫn bị quân ta tập kích ngày đêm. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên đã nói với Thoát Hoan: ''ở Giao Chỉ, không có thành trì để giữ, không có lương thực đủ ǎn, mà thuyền lương của bọn Trương Vǎn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên bảo toàn quân mà về thì hơn" Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường: cánh quân bộ rút qua vùng Lạng Sơn, còn cánh quân thuỷ sẽ rút ra biển theo sông Bạch Đằng.

Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thuỷ quân và bộ binh ta đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch.

Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn chúng vào các bãi cọc. Giặc định áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yểm hộ cho đoàn thuyền rút, nhưng bị bộ binh ta đánh hắt xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xảy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Cho đến giờ dậu (5-7 giờ tối), toàn bộ đạo quân thuỷ của giặc bị tiêu diệt. ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng Bạch Đằng lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó, đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Đan Ba (Đình Lập), chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây, chúng cũng bị quân ta chặn đánh, tướng giặc là A Bát Xích (Abaci) bị trúng tên. Mãi đến ngày 19/4/1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh.

Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt.

Vài nét về kết quả và nghệ thuật quân sự trận Bạch Đằng (9/4/1288)

Trong trận này, 8 vạn thuỷ quân và 400 thuyền chiến của địch đã bị ta tiêu diệt. Nghệ thuật quân sự của quân dân thời Trần là phối hợp chặt chẽ giữa quân đội nhà vua (chủ lực) và dân binh địa phương. Trong tác chiến đã sử dụng hình thức phục kích để tiêu diệt địch. Về chiến lược, chiến thuật: chọn đạo quân thuỷ của địch làm đối tượng tiến công, tiêu diệt trước và chủ yếu; đó là một quyết tâm rất chính xác vì so với đạo bộ binh chủ lực, thì số lượng đạo quân thủy ít hơn, không giỏi chiến đấu bằng và phải tốn nhiều công sức xây dựng.

Quãng sông Bạch Đằng, nơi được chọn làm địa điểm tác chiến là một khu vực hiểm yếu có đủ những điều kiện cần thiết, đáp ứng được yêu cầu bố trí một trận mai phục trên sông với quy mô lớn.

Tuy vậy, muốn khai thác triệt để những điều kiện thuận lợi trên, còn cần phải có một nghệ thuật tác chiến rất cao, như tìm cách cô lập hoàn toàn đạo quân thuỷ của ô Mã Nhi với đạo bộ binh chủ lực của Thoát Hoan, tách rời đạo kỵ binh đi yểm hộ và dần dần điều động đạo quân thuỷ này từng bước lọt vào đúng trận địa mai phục, theo đúng thời gian đã được xác định. Bởi vậy, đạo thuỷ quân địch dù đông tới 8 vạn tên, được đề phòng rất cẩn mật, nhưng vẫn gặp nhiều bất ngờ, lúng túng buộc phải bị động đối phó từ đầu đến cuối, và kết qủa là bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiến thắng Bạch Đằng còn là kết quả của sự phối hợp tác chiến có hiệu quả cao giữa thuỷ quân và bộ binh, giữa quân chủ lực với các đội dân binh, giữa các lực lượng tham chiến về thời gian và không gian.

Thế là trong vòng ba mươi nǎm, quân dân ta đã ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất của thời đó, bảo vệ quyền độc lập tự chủ của đất nước, góp phần bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam á.

Sức mạnh để làm nên chiến thắng là khối đoàn kết toàn dân như Trần Hưng Đạo đã nói, đó là ''vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức". Chính nhờ khối đoàn kết đó mà một cuộc chiến tranh nhân dân, ''cả nước đánh giặc ", "trǎm họ là binh", mới có thể thực hiện. Và sau cùng, nguyên nhân sâu xa hơn của chiến thắng là sự ổn định kinh tế - xã hội thời Trần, được tạo ra từ đường lối "lấy dân làm gốc".

Nói đến những chiến công chống xâm lược thời Trần, chúng ta không thể không nhớ tới câu nói tuyệt vời của Trần Hưng đạo: ''Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước''.
4. Trận Tốt Động - Chúc Động (5-7/11/1426)
Trong Bình Ngô đại cáo, bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, Nguyễn Trãi đã miêu tả trận đánh ở Tốt Động - Chúc Động bằng những lời đầy hào khí của nghĩa quân Lam Sơn:
... Ninh Kiều máu chảy thành sông, hôi tanh muôn dặm.
Tốt Động thây phơi đầy nội, thối đã nghìn thu...
Tốt Động - Ninh Kiều (tức Chúc Động) là nơi đã diễn ra trận đánh nồi tiếng của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống Minh hồi đầu thế kỷ thứ 15. Lúc này cuộc kháng chiến đã bước sang năm thứ 8, ta càng đánh càng mạnh, càng giành được thế chủ động, địch liên tiếp bị thất bại, đang chuyển dần sang thế phòng ngự bị động. Chúng phải tập trung quân, co cụm về bảo vệ Đông Quan, sào huyệt cuối cùng của quân xâm lược. Trước tình hình như vậy, nhà Mỉnh đã phải điều động một lực lượng lớn gồm hơn 50 nghìn quân do Vương Thông chỉ huy sang tăng viện cho Đông Quan. Với lực lượng hơn 100 nghìn tên cả mới lẫn cũ, Vương Thông muốn dựa vào ưu thế về binh lực quyết định mở cuộc hành quân lớn nhằm quét sạch lực lượng nghĩa quân ở vùng ngoại vi Đông Quan, giành lại thế chủ động chiến lược, và xoay chuyển lại tình thế đang không có lợi cho chúng. Hướng hành quân của chúng là phía Nam và Tây Nam, nơi có một bộ phận lực lượng nghĩa quân do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Đinh Lễ... chỉ huy đang hoạt động.
Đầu tháng 11/1426, Vương Thông tập trung hơn 90 nghìn quân hùng hổ tiến theo hướng Nam và Tây Nam với mộng tưởng có thể đè bẹp lực lượng của quân ta. Đoán trước được âm mưu và hướng hành quân của địch, tuy lực lượng rất ít so với quân địch, nhưng với quyết tâm chiến đấu bẻ gẫy cuộc hành quân của chúng, các tướng nghĩa quân Lam Sơn đã chọn một cách đối phó thích hợp, rất sáng tạo. Đó là tìm địa hình xung yếu cho quân mai phục chờ đánh địch. Trận địa mai phục chủ yếu được bố trí ở Tốt Động và Chúc Động. Tốt Động (nay thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây) là một vùng đất thấp lầy lội bốn xung quanh có những gò đất cao, rất thuận tiện cho việc mai phục. Chúc Động cách Tốt Động 6 km về phía Đông Bắc cũng là một địa hình đa dạng, phức tạp và hiểm yếu rất thuận tiện cho việc mai phục. Trận địa mai phục ở Tốt Động có nhiệm vụ chặn đứng và đập nát tiền quân địch, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực của chúng. Còn trận địa mai phục ở Chúc Động thì nhằm đánh vào hậu quân địch, đồng thời chặn đường rút lui của chúng khi bị thất bại muốn tìm đường chạy trốn về Đông Quan.
Đúng như dự tính, toàn bộ quân địch đã lọt vào trận địa phục kích của ta ở Tốt Động và Chúc Động. Suốt ba ngày đêm (từ 5 đến 7 tháng 11 năm 1426) chiến đấu liên tục vô cùng ác liệt và rất mưu trí, linh hoạt, nghĩa quân Lam Sơn đã làm thất bại hoàn toàn cuộc phản công chiến lược của Vương Thông. Hơn 6 vạn quân địch đã bị tiêu diệt, Thượng thư Tín Hiệp, Nội quan Lý Lượng đã phải bỏ mạng, bản thân Vương Thông cũng bị trọng thương. Số tàn quân cố gắng bảo vệ chủ tướng liều chết mở đường máu rút chạy về Đông Quan.
Quân ta đã toàn thắng! Cục diện chiến tranh đã hoàn toàn thay đổi, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Minh bước vào một giai đoạn mới. Đó là thắng lợi của trận quyết chiến có ý nghĩa chiến lược to lớn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ thứ 15. Trong điều kiện chiến đấu ác liệt, với so sánh lực lượng vô cùng chênh lệch gần như lấy một đánh mười, quân dân ta vẫn quyết tâm tiến công địch và giành thắng lợi rực rỡ trong một thời gian rất ngắn. Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta như là một trong những mẫu mực điển hình nhất của nghệ thuật quân sự ''lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh" đúng như Nguyễn Trãi đã tổng kết trong Bình Ngô đại cáo:
Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục,
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ.
5. Trận Chi Lăng - Xương Giang (8-10-1427 - 3-11-1427)
Cuối năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo chống quân Minh xâm lược bước sang năm thứ 10 và đã đứng trước cửa ngõ thắng lợi hoàn toàn. Tuyệt đại bộ phận đất nước được giải phóng, địch chỉ còn co về chiếm giữ thành Đông Quan (Hà Nội) và một số thành luỹ khác. Trước nguy cơ hoàn toàn thất bại và để cứu đạo quân Vương Thông đang bị vây hãm ở Đông Quan, giặc Minh đã quyết định phái sang nước ta một đạo viện binh lớn do Liễu Thăng chỉ huy. Đạo quân này được tổ chức thành hai cánh tiến quân: cánh thứ nhất gồm 100.000 tên, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Liễu Thăng, tiến theo ngả Quảng Tây vào Lạng Sơn, Xương Giang. Cánh thứ hai gồm 50.000 tên do Mộc Thạch chỉ huy, tiến theo ngả Vân Nam vào Lào Cai, Việt Trì. Hai cánh này sẽ hợp vây tiêu diệt khối chủ lực chủ yếu của quân Lam Sơn đứng chân ở Đông Bắc Đông Quan, giải tỏa Đông Quan tạo bàn đạp tiến về phía Nam.
Chủ trương của ta là tập trung chủ lực tiêu diệt cánh quân Liễu Thăng trước, kiềm chế, ngăn chặn cánh quân Mộc Thạch bằng lực lượng thứ yếu để tạo điều kiện tiêu diệt ở bước tiếp theo. Đồng thời, ta dùng một lực lượng tiếp tục vây hãm Vương Thông, không cho chúng hợp quân với các cánh viện binh.
Trong bước chuẩn bị, ngày 28-9-1427, ta hạ thành Xương Giang, xoá sổ dinh luỹ cuối cùng của địch ở phía Bắc Đông Quan, làm chủ hoàn toàn chiến trường dự kiến tác chiến trên hướng chủ yếu.
Ngày 8-10, cánh quân Liễu Thăng tiến vào nước ta. Ngày 10-10, đội tiền quân do chính Liễu Thăng dẫn đầu chủ quan khinh địch, rơi vào trận địa phục kích của Lê Sát ở cửa ải Chi Lăng. Toàn bộ 10.000 tên của đội quân này cùng với chủ tướng Liễu Thăng bị diệt dưới chân Mã Yên - Chi Lăng.
Ngày 15-10, tướng Lương Minh vừa lên thay Liễu Thăng cùng hàng vạn quân nữa bị đạo quân Lê Lý tập kích tiêu diệt ở Cần Trạm. Ngày 18-10, thêm 10.000 tên địch nữa bỏ mạng trong trận phục binh của ta ở Phố Cát. Lực lượng còn lại, dưới sự chỉ huy của Thôi Tụ - Hoàng Phúc tiến đến gần thành Xương Giang mới biết thành đã bị thất thủ. Địch buộc phải hạ trại trú quân trên cánh đồng Xương Giang, nơi ta đã bố trí sẵn một lực lượng vây hãm từ các hướng.
Ngày 3/11, ta tổng công kích vào cụm quân địch phòng ngự dă ngoại ở khu vực này. Sau một ngày chiến đấu, ta đă giành được thắng lợi giòn giã: diệt và bắt hơn 60.000 địch, bao gồm toàn bộ tướng chỉ huy của chúng. Đạo quân viện binh chủ yếu của nhà Minh bị tiêu diệt hoàn toàn.
Trong khi đó ở phía Tây, nhận được tin thất bại của đạo quân Liễu Thăng, Mộc Thạch vội vàng cho quân rút chạy. Quân ta dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Xào, Trịnh Khả đă truy kích tiêu diệt hàng vạn tên, làm tan rã hoàn toàn cánh quân này.
Đạo quân viện bị tiêu diệt, Vương Thông bị vây ở thành Đông Quan phải đầu hàng và buộc nhà Minh phải chấp nhận rút các lực lượng còn lại về nước, thừa nhận nền độc lập của nước ta.
6.Đại thắng Thăng Long trong mùa xuân Kỷ Dậu (1789)
Cuối năm Mậu Thân (1788), nhân dân Thăng Long và Bắc Hà phải chịu đựng những ngày tháng đau thương, tủi nhục vì nạn ngoại xâm. Lợi dụng sự cầu cứu của Lê Chiêu Thống, 290 nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lãnh, đã tràn vào chiếm đóng kinh thành và kiểm soát phần lớn đất Bắc Hà. Quân đồn trú Tây Sơn do tướng Ngô Văn Sở chỉ huy, đã theo kế sách mưu trí của tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, lui về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn.
Giành được thắng lợi tương đối dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất chủ quan. Hắn ra lệnh cho quân sĩ tạm đóng quân ở Thăng Long để nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị mọi mặt thật chu đáo rồi sau tết sẽ "tiến vào tận sào huyệt của giặc, bắt sống Nguyễn Huệ" (Hoàng Lê nhất thống chí), Hắn đóng đại bản doanh ở cung Tây Long bên bờ sông Nhị và bố trí lực lượng phòng thủ quanh Thăng Long, nhất là hướng đường thiên lý và đường thượng đạo mà quân Tây Sơn có thể bất ngờ tiến công. Trên hai hướng phòng ngự này, đồn Ngọc Hồi và đồn Đống Đa giữ vị trí then chốt.
Những ngày giáp tết năm đó, nhân dân kinh thành đã chứng kiến biết bao tội ác của quân giặc: ''kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức, cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả"; và sự phản bội hèn mạt của bọn bán nước: ''nước Nam ta từ khi có đế, có vương đến nay, chưa bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế" (Hoàng Lê nhất thống chí).
Nhưng cũng trong thời gian đó, tại Phú Xuân, ngày 24 tháng 11 Mậu Thân (21/12/1788) Quang Trung nhận được tin cấp báo và ngay hôm sau làm lễ xuất quân. Với những phán đoán tình hình và công việc chuẩn bị được trù liệu trước, chỉ trong vòng 35 ngày từ 25/11 đến 30/12 Mậu Thân (22/12/1788 - 25/1/1789), trên đường hành quân và tập kết đại quân ở Tam Điệp, Quang Trung đă hoàn tất mọi việc chuẩn bị cho chiến dịch đại phá quân Thanh. Đúng đêm giao thừa Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn bất ngờ tiến công tiêu diệt đồn tiền tiêu của giặc ở Gián Khẩu, cách Thăng Long gần 90 km, mở đầu cuộc đại phá quân Thanh. Sau 5 ngày đêm tiến quân thần tốc, đạo quân chủ lực của Quang Trung đã phá tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng đường thiên lý tiến về Thăng Long.
Mờ sáng mùng 5 tết (30/1/1789), đạo quân chủ lực của Quang Trung phối hợp với đạo quân đô đốc Bảo công phá và tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Ngọc Hồi - Đầm Mực.
Cùng lúc đó, đạo quân do đô đốc Long chỉ huy, bất ngờ diệt đồn Đống Đa rồi đánh thọc sâu vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị ở cung Tây Long.
Sự phối hợp hai trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa làm cho Tôn Sĩ Nghị hết sức bất ngờ, choáng váng và lâm vào thế hoàn toàn bất lực, sụp đổ. Với cả một lực lượng dự bị khá lớn ở tổng hành dinh, nhưng viên chủ soái quân Thanh đành phải tháo chạy trong cảnh hoảng loạn và tan rã. Trên đường tháo chạy, chúng lại bị một cánh quân Tây Sơn khác chặn đánh ở vùng Yên Thế, Phượng Nhãn, Lạng Giang và bị bồi thêm những đòn tổn thất nặng nề.
Trưa mùng 5 tết, cả 36 phố phường Thăng Long như bừng lên trong ngày hội chiến thắng:
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta.
(Bản dịch thơ của Ngô Ngọc Du, một nhà thơ đương thời)
35 ngày chuẩn bị trên đường hành quân dài khoảng hơn 500 km từ Phú Xuân đến Tam Điệp và 5 ngày đêm tiến công tiêu diệt trên một tuyến phòng ngự dài khoảng 90 km từ Gián Khẩu đến Thăng Long, quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung đã đạt mức kỷ lục về tính thần tốc trong hành quân chuẩn bị và tiến công tiêu diệt địch.
Đại thắng Thăng Long xuân Kỷ Dậu 1789 là một trong những vũ công hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Đó là chiến thắng tiêu biểu cho đỉnh cao của sự phát triển và thắng lợi của phong trào Tây Sơn, được tạo nên bằng sức mạnh quật khởi của nông dân kết hợp với sức mạnh yêu nước và đoàn kết của cả dân tộc. Trong hàng ngũ quân đội Tây Sơn lập nên vũ công mùa xuân đó có những người đã tham gia dấy nghĩa từ đất Tây Sơn, có những con các em dân tộc Tây Nguyên chuộng tự do phóng khoáng, có những người dân khắp mọi miền của đất nước đã tự nguyện đứng dưới lá cờ nghĩa Tây Sơn, có những trí thức yêu nước như Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp... những võ quan cũ của chính quyền Lê - Trịnh như Đặng Tiến Đông..., những tướng soái Tây Sơn đă đày dạn chiến trận như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Tuyết... .
Đó là chiến thắng của quân đội Tây Sơn với quyết tâm và ý chí đánh cho nó ''chích luân bất phản", đánh cho nó ''phiến giáp bất hoàn", đánh cho ''sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. ý chí đó lại được nhân dân hết lòng giúp đỡ. Và như chúng ta đã biết, trên đường hành quân chiến đấu của quân Tây Sơn, nhân dân đã cho con em mình gia nhập nghĩa quân, đã tiếp tế lương thực, giúp các phương tiện vượt sông...
Nhân dân các làng xã quanh Thăng Long đã giúp quân Tây Sơn bí mật giấu quân ém sát đồn giặc, góp ván gỗ làm mộc công phá đền Ngọc Hồi, đă phối hợp làm trận rồng lửa trong trận diệt đồn Đống Đa...
Đó là chiến thắng của nghệ thuật quân sự tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Từ năm 18 tuổi theo Nguyễn Nhạc, khởi nghĩa (1771), trải qua biết bao chiến trận từ trận Phú Yên (1775), trận Rạch Gầm - Xoài Mút (1785), trận đánh Phú Xuân và giải phóng Thăng Long (1786), Quang Trung đã được tôi luyện và trưởng thành, đã trở thành một anh hùng uy danh lừng lẫy, một thống soái thiên tài ở tuổi 36 sung sức.
Bằng lối đánh thần tốc và một thế trận lợi hại kết hợp tiến công chính diện mãnh liệt với những mũi thọc sâu bất ngờ và những mũi vu hồi sau lưng, Quang Trung với số quân chỉ hơn 10 vạn, nhưng đã đặt Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh vào thế hoàn toàn bị động, bất ngờ đi từ thất bại này đến thất bại khác và cuối cùng phải chấp nhận sự thảm hại, tháo chạy trong hoảng loạn. Đại thắng Xuân Kỷ Dậu (1789) biểu thị tập trung thiên tài quân sự của Quang Trung Nguyễn Huệ.
Đó còn là chiến thắng của lòng nhân đạo và tinh thần hoà hiếu. Ngay sau khi giải phóng Thăng Long, Quang Trung đã ra lệnh chiêu nạp và nuôi dưỡng tất cả tù binh và hàng binh Thanh, lại sai thu nhặt xác giặc trên các chiến trường chôn thành 12 gò đống và lập đàn cúng tế. Bài văn tế biểu thị tấm lòng khoan dung độ lượng của người chiến thắng:
Nay ta: Sai thu nhật xương cốt chôn vùi,
Bảo lập đàn bên sông cúng tế.
Lòng ta thương chẳng kể người phương Bắc,
Xuất của kho mà đắp điếm đống xương khô,
Hồn các người không vơ vẩn trời Nam,
Hãy lên đường mà quay về nơi hương chỉ
Nay kính ngưỡng ta đây là chủ chan chứa lòng thành.
Mong sao đáp lại đạo trời dạt dào lẽ sống.
Cũng ngay sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích dùng mọi biện pháp ngoại giao mềm mỏng và tích cực để nhanh chóng lập lại quan hệ hoà hiếu với nhà Thanh. Chỉ trong vòng nửa năm, hai bên đã thông sứ bộ và sau đó, quan hệ bang giao và buôn bán giữa hai nước đã được khôi phục. Hoài bão lớn lao nhất của Quang Trung phản ánh ước vọng của dân tộc ta là được sống trong độc lập và thanh bình để xây đựng đất nước.
7. Chiến dịch Điện Biên Phủ (13/3/1954 – 7/5/1954)
Bước sang năm thứ 8 của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược, giặc Pháp đã ở vào thế phòng ngự, nhất là trên chiến trường Bắc Bộ. Nhận thấy không thể thắng trong cuộc chiến tranh này, giặc Pháp đã đưa ra kế hoạch Nava nhằm bình định Việt Nam trong 18 tháng, để tạo thế mạnh tiến tới một giải pháp thương lượng có lợi cho chúng.
Về phía ta, với những đòn tiến công và phản công trên các hướng Tây Bắc, Tây Nguyên - Duyên hải Trung Bộ, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, trong Đông Xuân 1953-1954, ta đã buộc địch phải phân tán lực lượng cơ động trên khắp chiến trường, trong khi đó ta tập trung chủ lực về hướng Tây Bắc.
Nhạy cảm trước ý đồ chiến lược của ta, địch liền tăng cường lực lượng, biến Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, buộc ta phải chấp nhận chiến đấu nếu muốn giải phóng Tây Bắc. Nhận định đây là một cơ hội lớn để tiêu diệt sinh lực địch, ta quyết định mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ. Trong bối cảnh đó, chiến trường này đã trở thành điểm quyết chiến chiến lược nóng bỏng của cả hai bên.
Ta chủ trương chuẩn bị kỹ lưỡng, đánh chắc, tiến chắc, vì sau khi địch đã kịp thời tăng cường lực lượng, thiết kế phòng ngự vững chắc, khả năng đánh nhanh, thắng nhanh trở nên hạn chế.
Sau khi hoàn thành các công tác chuẩn bị, ngày 13/3, ta nổ súng tiến công tuyến phòng ngự vòng ngoài, bao gồm các cụm cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Ngày 13/3, các Trung đoàn 141 và 209 (Đại đoàn 312) đã tiêu diệt các cụm cứ điểm Him Lam; ngày 14/3, các Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) và 165 (Đại đoàn 312) đã tiêu diệt cụm cứ điểm Độc Lập; ngày 17/3, kết hợp tiến công với lực lượng địch phản chiến, Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) làm chủ cứ điểm bản Kéo. Sau 5 ngày, ta đập tan tuyến phòng ngự vòng ngoài, mở thông cửa vào khu phòng ngự trung tâm, diệt và bắt sống hơn 2.000 tên địch.
Từ ngày 30/3, ta mở đợt tiến công lần thứ hai, nhằm vào các cao điểm phía Đông Mường Thanh (phân khu trung tâm). Các đại đoàn của ta đã nhanh chóng chiếm được một số cứ điểm, nhưng những trận chiến đấu quyết liệt giành giật giữa đôi bên đã diễn ra tại khu vực tác chiến của Đại đoàn 316 trên các điểm cao A1, C1. Suốt trong tháng 4, ta và địch đã giành đi giật lại từng khu vực trên các điểm cao có ý nghĩa chiến thuật quan trọng khống chế phân khu trung tâm. Giữa tháng 4, ta tiến chiếm sân bay Mường Thanh, cắt đứt cầu hàng không là đường tiếp tế quan trọng nhất của địch. Chúng lâm vào thế nguy khốn, bị tiến công trong tình trạng hậu cần ngày càng trở nên khó khăn.
Từ l/5, có ba hướng: Đông, Tây, Đông Bắc, các đại đoàn của ta mở cuộc tiến công cuối cùng vào Điện Biên Phủ. Ngày l/5, Đại đoàn 316 chiếm đồi C1; sáng 7/5, ta diệt các cứ điểm C2, A1, 507, là những cứ điểm kiên cố cuối cùng của địch. Chiều 7/5, ta tổng công kích trên toàn bộ mặt trận và đến chiều, ta đã hoàn toàn giải phóng Điện Biên Phủ, cầm giữ tại chỗ hơn 10 nghìn tên địch

Đất Nước Việt Nam

Diện tích: 331.114 km2
Dân số: 80.902.400 người (2003)
Thủ đô: Hà Nội
Dân tộc: 87% Việt, 11% thiểu số, 2% Hoa
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Tôn giáo: Phật giáo, Nho giáo, Thiên Chúa giáo ...
GDP: 33,7 tỷ đô-la Mỹ (2003)
GDP bình quân đầu người : 485 đô-la Mỹ (2003)
Mặt hàng xuất khẩu chính(2003): dầu thô, dệt may, hải sản, giầy dép, lúa gạo, cà phê ...Mặt hàng nhập khẩu chính(2003): xăng dầu, dệt, thép ....

1.Lịch sử
Lịch sử Việt Nam được bắt nguồn từ sự định cư của các tộc người Việt cổ trong thời Văn Lang mà theo nhiều tài liệu là từ năm 2879 TCN. Bắt đầu từ thế kỷ 2 TCN, các dân tộc này bị các tập đoàn phong kiến phương Bắc cai trị trong hơn 1000 năm. Sau nhiều lần khởi nghĩa không thành, hoặc chỉ giành độc lập ngắn (60 năm thời Lý Bí), đến năm 938, Việt Nam giành được độc lập lâu dài sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền chỉ huy. Dân tộc Việt xây dựng nhà nước độc lập trên cơ sở học tập mô hình thể chế chính trị và xã hội, chữ viết (chữ Hán), nghệ thuật và văn hóa của người Trung Quốc. Trải qua các triều đại phong kiến, và với những lần mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, đất nước Việt Nam thống nhất với ranh giới địa lý gần như hiện nay vào năm 1802.
Đến giữa thế kỷ 19, cùng với Đông Dương, Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp. Trong Thế chiến thứ hai, phát xít Nhật chiếm Việt Nam và toàn thể Đông Dương, ngay sau khi hay tin quân Đồng Minh chiến thắng, Việt Minh đã giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước đầu tiên của nước Việt Nam hiện đại.
Sau Thế chiến thứ hai, người Pháp muốn chiếm lại thuộc địa Đông Dương nhưng vấp phải sự phản kháng quyết liệt của người Việt Nam. Sau chiến thắng của Việt Minh tại chiến trường Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp buộc phải rút khỏi Đông Dương. Hiệp định Genève được ký kết, chấm dứt ách đô hộ gần một trăm năm của Pháp tại Việt Nam, đồng thời chia đôi nước Việt Nam và lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới, định sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử cả nước. Tuy nhiên, vì nhiều tác nhân bên ngoài nên trong hoàn cảnh lịch sử đó, Hiệp định Genève đã bị phá vỡ. Nước Việt Nam Cộng hòa được thành lập ở miền Nam được Hoa Kỳ và một số nước đồng minh hậu thuẫn và các nước trong thế giới tự do công nhận, với chính quyền trong tay những người không tham gia chống xâm lược Pháp. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo mô hình xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thành lập tại miền Bắc là nước được Liên Xô, Trung Quốc hậu thuẫn và được các nước trong khối xã hội chủ nghĩa khác công nhận và giúp đỡ. Chính quyền miền Bắc có nòng cốt là Việt Minh.
Xung đột giữa hai miền mở ra một cuộc chiến tranh kéo dài suốt gần 2 thập kỷ. Năm 1964, Hoa Kỳ can thiệp, đưa quân Mỹ vào chiến đấu trực tiếp tại chiến trường Việt Nam, vài năm sau đó (1972), Mỹ thực hiện các đợt ném bom miền Bắc bằng máy bay B-52. Đến tháng 1 năm 1973, sau những tổn thất vuợt ngưỡng chịu đựng trên chiến trường Việt Nam, cùng với những khó khăn trên chính trường Mỹ cộng với tác động của phong trào phản chiến trong nước và trên thế giới, Hoa Kỳ ký Hiệp định Paris, và rút quân khỏi Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam được coi như kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính quyền của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng.
Năm 1976, nước Việt Nam thống nhất đổi tên hiệu là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Sài Gòn - Chợ Lớn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Sau chiến tranh, nhiều chính sách sai lầm đã đưa Việt Nam vào các khủng hoảng trầm trọng về kinh tế và xã hội. Đại hội Đảng lần VI năm 1986 chấp thuận chính sách Đổi mới theo đó cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường. Giữa thập niên 1990, Việt Nam bắt đầu hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Năm 1995, Việt Nam gia nhập khối ASEAN, sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ một năm trước đó. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Cộng đồng Pháp ngữ, ASEAN, APEC. Vào ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sau 11 năm đàm phán. Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007 Việt Nam đã được bầu làm một thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2008-2009.
2. Địa lý
Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển phía đông của bán đảo này; ngoài ra, Việt Nam luôn khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ lịch sử của mình. Việt Nam có biên giới đất liền với Trung Quốc (1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia (1.228 km) và bờ biển dài 3.444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan.
Việt Nam có diện tích 331.688 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² biển nội thuỷ, với hơn 4.000 hòn đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ, có vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được Chính phủ Việt Nam xác định gần gấp ba lần diện tích đất liền khoảng trên 1 triệu km². Địa thế có những đồi và những núi đầy rừng, trong khi đất phẳng che phủ khoảng ít hơn 20%. Núi rừng chiếm độ 40%, đồi 40%, và độ che phủ khoảng 75%. Miền Bắc gồm có cao nguyên và vùng châu thổ sông Hồng; miền Trung là phần đất thấp ven biển, những cao nguyên theo dãy Trường Sơn, và miền Nam là vùng châu thổ Cửu Long. Điểm cao nhất Việt Nam là 3.143 mét, tại đỉnh Phan Xi Păng, thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn. Diện tích đất canh tác chiếm 17% tổng diện tích đất Việt Nam.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ở miền nam với hai mùa (mùa mưa, từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9, và mùa khô, từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 3) và khí hậu gió mùa ở miền bắc với bốn mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông). Do nằm dọc theo bờ biển, khí hậu Việt Nam được điều hoà một phần bởi các dòng biển và mang nhiều yếu tố khí hậu biển. Độ ẩm tương đối trung bình là 84% suốt năm. Hằng năm, lượng mưa từ 1.200 đến 3.000 mm, và nhiệt độ từ 5°C đến 37°C.
Việt Nam có nhiều mỏ khoáng sản trên đất liền, rừng tự nhiên và một số mỏ dầu, khí, quặng khoáng sản ngoài khơi. Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội.
3. Chính trị
Việt Nam hiện nay là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị đã thực hiện theo cơ chế chỉ có duy nhất một đảng chính trị (là Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo, với tôn chỉ là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ thông qua cơ quan quyền lực là Quốc hội Việt Nam. Trên thực tế cho đến nay (2007) các đại biểu là đảng viên trong Quốc hội có tỉ lệ từ 90% trở lên[1], những người dẫn đầu Chính Phủ và Quốc Hội đều là đảng viên kỳ cựu và được Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo theo quy định trong điều 4 của Hiến pháp. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam là một Tổng bí thư. Tổng bí thư hiện nay (2007) là ông Nông Đức Mạnh.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Nhiệm vụ của Quốc hội là giám sát, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Nhiệm kỳ Quốc hội là 5 năm. Chủ tịch Quốc hội được Quốc hội bầu do đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch Quốc hội hiện nay (2007) là ông Nguyễn Phú Trọng.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước được Quốc hội bầu do Chủ tịch Quốc hội giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị. Chủ tịch nước có 12 quyền hạn theo Hiến pháp trong đó quan trọng nhất là: công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng, Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Chủ tịch nước. Chủ tịch nước hiện nay (2007) là ông Nguyễn Minh Triết.

Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ chịu sự giám sát và thực hiện chế độ báo cáo công tác trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ Chính phủ là 5 năm. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ do Chủ tịch nước giới thiệu từ đề cử của Bộ Chính trị để Quốc hội bầu. Không có quy định giới hạn số nhiệm kỳ được làm Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ hiện nay (2007) là ông Nguyễn Tấn Dũng.
Các Phó Thủ tướng do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, là người giúp việc cho Thủ tướng và được Thủ tướng ủy nhiệm khi Thủ tướng vắng mặt. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ do Thủ tướng đề nghị Quốc hội phê chuẩn, đảm nhiệm chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được giao. Việc tổ chức nhân sự cấp cao này đều thông qua Bộ Chính trị và các viên chức này đều do Trung ương đảng quản lý.
Chính phủ Việt Nam có 18 bộ và 4 cơ quan ngang bộ. Chính phủ còn quản lý 8 cơ quan trực thuộc như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam,Đài Tiếng nói Việt Nam,... Những người lãnh đạo như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, cũng như các bộ trưởng hay các vị trí quản lý chủ chốt trong bộ máy Nhà nước và Chính phủ đều do đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đảm nhiệm dù rằng hiến pháp không qui định.
4. Chính sách đối ngoại
Theo các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 168 quốc gia thuộc tất cả các châu lục, bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới. Việt Nam cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ. Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU. Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chính trị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004.
Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, nhóm các nước châu Á tại Liên Hiệp Quốc đã nhất trí thông qua quyết định đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất cho ghế thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc dành cho châu Á nhiệm kỳ 2008-2009.
Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế quốc tế.
5. Phân cấp hành chính
Hệ thống hành chính:
Việt Nam là quốc gia theo chế độ Xã hội Chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoà bình và ổn định. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, có quyền lựa chọn ra Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ. Chính phủ gồm có các Bộ và Cơ quan ngang Bộ.
Về đơn vị hành chính, Việt Nam có 64 tỉnh thành. Uỷ ban Nhân dân và Hội Đồng Nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước ở các tỉnh thành và các đơn vị hành chính thấp hơn.
Việt Nam được chia ra 64 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc trung ương, thủ đô là Hà Nội: An Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bạc Liêu, Bắc Kạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Dương, Bình Định, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cao Bằng, Cần Thơ*, Đà Nẵng*, Đăk Lăk, Đăk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hà Nam, Hà Nội*, Hà Tây, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng*, Hậu Giang, Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh*, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Thọ, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên-Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái.
Dưới cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, Việt Nam được chia thành quận, huyện, thị xã hay thành phố trực thuộc tỉnh.

6. Kinh tế
Việt Nam từ một quốc gia nghèo và đông dân đang dần bình phục và phát triển sau sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát viện trợ tài chính từ khối các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, và sự yếu kém của nền kinh tế tập trung. Chính sách Đổi Mới năm 1986 thiết lập nền "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Các thành phần kinh tế được mở rộng nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Sau năm 1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Tăng trưởng GDP 8,5% vào năm 1997 đã giảm xuống 4% vào năm 1998 do ảnh hưởng của sự kiện khủng hoảng kinh tế Á châu năm 1997, và tăng lên đến 4,8% năm 1999. Tăng trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000-2002 trong khi tình hình kinh tế thế giới đang trì trệ. Hiện nay, giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục các nỗ lực tự do hoá nền kinh tế và thi hành các chính sách cải cách, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để đổi mới kinh tế và tạo ra các ngành công nghiệp xuất khẩu có tính cạnh tranh hơn.
Việt Nam đã hoàn thành việc xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia nhập sau khi đã kết thúc đàm phán song phương với tất cả các nước có yêu cầu (trong đó có những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Trung Quốc. Ngày 28 tháng 11, Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tỷ lệ phiếu thuận 90,24%[1]. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức WTO ngày 11 tháng 1 năm 2007.
Công cuộc Đổi mới khởi xướng từ năm 1986 đã đưa đến nhiều thắng lợi to lớn và thành tựu đáng kể trong nền kinh tế của Việt Nam. Kinh tế tăng trưởng, đời sống của người dân Việt Nam đã được nâng cao một cách đáng kể. Năm 1995 Việt Nam đã chính thức gia nhập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Châu á (ASEAN). Đó là một điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và hội nhập vào khu vực và thế giới.
Đã gia nhập APEC và đặc biệt là WTO năm 2007
Hiện nay, kinh tế Việt Nam phát triển trên nhiều lĩnh vực, từ xuất khẩu cho đến thu hút đầu tư nước ngoài, thu hút khách du lịch quốc tế. Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tiếp tục duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao và đi dần vào thế ổn định. Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới (công bố ngày 9/11/2004), tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2004 dự báo đạt 7,2%, đứng thứ 4 trên thế giới.
Vùng kinh tế
1. Đông Bắc Bắc Bộ
2. Tây Bắc Bắc Bộ
3. Đồng Bằng Sông Hồng
4. Bắc Trung Bộ
5. Nam Trung Bộ
6. Tây Nguyên
7. Đông Nam Bộ
Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long)
.
7. Khí hậu và tài nguyên
Đặc trưng của khí hậu Việt Nam là gió mùa, có số ngày nắng, lượng mưa, và độ ẩm cao. Mặc dù nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, Việt Nam có khí hậu đa dạng do sự khác biệt về kinh tuyến và vĩ tuyến. Mùa đông có thể sẽ rất lạnh ở miền bắc, trong khi đó ở miền nam lại có nhiệt độ vùng cận xích đạo, ấm áp quanh năm.
Việt Nam có nhiều nguồn tài nguyên khoáng sản. Nằm sâu trong lòng đất là những loại đá quý hiếm, than, và nhiều loại khoáng sản có giá trị như thiếc, kẽm, bạc, vàng, và antimon. Cả trong đất liền cũng như ngoài biển khơi đều có dầu và khí đốt với trữ lượng rất lớn.

8. Con người và ngôn ngữ
Việt Nam có trên 80 triệu dân với 54 dân tộc khác nhau. Người Việt (hay Kinh) chiếm 80% dân số. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thống ở Việt Nam đồng thời là phương tiện để gắn kết cho một cộng động vững mạnh. Nhiều tiếng nước ngoài như tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức được sử dụng trong giao dịch quốc tế.
Theo chính phủ Việt Nam, Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 87%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển. Những dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, tập trung ở các vùng cao nguyên. Trong số người thiểu số, đông dân nhất là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi dân tộc có dân số khoảng một triệu người. Các dân tộc Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu có số dân ít nhất, với khoảng vài trăm cho mỗi nhóm. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây.
9. Giáo dục và khoa học
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang cố gắng hội nhập với các nước trong khu vực và trên Thế giới. Ở Việt Nam có 3 cấp học: tiểu học, trung học, đại học. Có một số trường đại học nổi tiếng như: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Xây dựng, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông nghiệp 2 Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Thương mại...
10.Du lịch
Đây là ngành dịch vụ thế mạnh, đóng góp tích cực vào nền kinh tế Việt Nam. Số lượng khách du lịch đến Việt Nam liên tục tăng và tăng nhanh trong vòng 10 năm từ 1996 - 2006. Năm 2006, có khoảng 3.56 triệu lượt khách quốc tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ khoảng 3.2 tỉ USD. Năm 2007 vốn đầu tư được tập trung nhiều vào những bãi tắm và du lịch biển nổi tiếng.
11.Truyền thông
Chế độ chính trị ở Việt Nam độc quyền, độc đảng, nên không có truyền thông, báo chí đối lập. Tất cả các cơ quan truyền thông, báo chí ở Việt Nam đều do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo và Bộ Thông tin & truyền thông chịu trách nhiệm, còn Ban tư tưởng văn hóa trung ương giám sát mọi hoạt động của giới truyền thông, báo chí Việt Nam.
13.Văn hóa
Việt Nam có một nền văn hoá rất đa dạng, phong phú và giàu bản sắc dân tộc vì có sự đóng góp của 54 dân tộc trên lãnh thổ. Bên cạnh đó, văn hóa Việt Nam còn có một số yếu tố từ sự kết tinh giao thoa giữa nền văn hoá Trung Quốc và Ấn Độ cùng với nền văn minh lúa nước của người dân Việt Nam.
14. Tôn giáo
Theo cuộc điều tra dân số năm 1999, 80,8% không theo tôn giáo, 9,3% theo Phật giáo, 6,7% theo Cơ Đốc giáo (bao gồm Công giáo La Mã, Tin Lành), 1,5% theo Hoà Hảo (một hình thức của Phật Giáo Đại Thừa đã bị "Việt Nam hóa") và 1,1% là tín đồ Cao Đài. Trên thực tế, đại đa số người dân Việt Nam có tục lệ thờ cúng tổ tiên, nhiều người theo các tín ngưỡng dân gian khác như Đạo Mẫu, và thường đến cầu cúng tại các đền chùa Phật giáo, Khổng giáo và Đạo giáo.
Các ngôi Chùa và khu di tích Phật giáo linh thiêng và nổi tiếng ở Việt Nam bao gồm Chùa Hương, Chùa Một Cột, Núi Yên Tử, Núi Tây Thiên, Chùa Thiên Mụ, Chùa Vĩnh Nghiêm, Núi Bà Đen, Núi Sam...
Các nhà thờ Công giáo La Mã nổi tiếng Việt Nam gồm có Nhà thờ chính tòa Hà Nội, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Nhà thờ Phát Diệm, Nhà thờ Phú Nhai- Bùi Chu, nhà thờ Quần Phương - Hải Hậu - Nam Định và nhiều nhà thờ khác .... Các giáo hội Kháng Cách lớn nhất ở Việt Nam là Hội thánh Tin Lành Việt Nam và cộng đồng Tin Lành trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
Các tín đồ Hồi giáo Sunni và Hồi giáo Bashi thường thuộc dân tộc Chăm thiểu số, nhưng cũng có một số người Việt theo Hồi giáo ở phía tây nam đất nước.