6/11/07

Những nghề "bất tử" ở Việt Nam

Những nghề này có vai trò thiết yếu đối với đời sống của mỗi con người, dù xã hội có phát triển đến đâu cũng không bao giờ mất đi. Tám nghề này không những mãi trường tồn cùng nhân loại mà còn ngày càng được trọng vọng.

1. Bác sĩ

Không phải chỉ khi có bệnh thì chúng ta mới cần đến bác sĩ. Ngay từ khi chào đời, một đứa trẻ đã cần tới sự hỗ trợ của các bác sĩ rồi. Một trong những tiêu chí giúp con người sống khoẻ, sống lâu là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Hơn nữa, xã hội càng phát triển thì con người càng muốn có sức khỏe tốt. Và nghề bác sĩ lúc nào cũng cần hơn bao giờ hết.
2. Dịch vụ tang lễ

Sinh - Lão - Bệnh - Tử là quy luật tất yếu của cuộc sống, vì thế nghề lo hậu sự luôn song hành cùng con người và càng ngày nó càng trở nên chuyên nghiệp, hiện đại hơn, tỉ lệ thuận với mức sống của mọi người.

3. Giáo viên

Giáo dục là vấn đề không thể thiếu đối với mọi quốc gia ở mọi thời đại. Xã hội càng phát triển, vai trò của người giáo viên càng lớn bởi người ta đã chứng minh được rằng đầu tư cho giáo dục là sự đầu tư rẻ nhất nhưng lại hiệu quả nhất.

4. Nông dân

Chúng ta không thể sống mà không ăn, người làm ra lương thực cho chúng ta vì thế mà vô cùng quan trọng. Bạn đừng coi thường người nông dân chân lấm tay bùn nhé. Không có họ, bạn làm sao có gạo, rau, ngũ cốc, sữa, thịt, cá… - tóm lại là tất cả những gì chúng ta bỏ vào miệng để nuôi sống cơ thể?

Tuy nhiên, nếu bạn định làm nghề này, cũng đừng sợ sẽ vất vả. Với sự phát triển của khoa học, máy móc kỹ thuật hiện đại, người nông dân sẽ không còn phải tự tay làm việc ngoài đồng nữa mà họ có thể ngồi trong nhà, điều khiển máy móc, chế tạo lương thực thực phẩm.

5. Công nhân xây dựng

Trời, càng ngày càng có nhiều công trình to, vĩ đại mọc lên. Người công nhân xây dựng làm sao có thể thất nghiệp được cơ chứ. Xóa sổ nghề này ư? Bạn sẽ dựng nhà bằng cách nào? Hay bạn định sống trong hang như thời nguyên thủy?

6. Xử lý rác thải

Bạn có thấy không, thời chúng ta, lượng rác thải sinh hoạt, sản xuất nhiều và độc hại hơn thời trước rất nhiều, và đến thời con cháu chúng ta thì còn nhiều hơn nữa. Nếu không được xử lý kịp thời, rác sẽ tràn khắp nơi, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Với sự tiến bộ của khoa học, càng ngày, công việc xử lý rác sẽ càng tinh vi hơn. Người ta sẽ tìm cách tái chế rác để tái sử dụng và làm sạch môi trường sống. Nếu không, sẽ có lúc cả hành tinh này sẽ ngập trong rác.

7. Nhân viên thuế

Thuế là nguồn thu chủ yếu của mọi quốc gia, dành để trang trải cho các hoạt động của đất nước: quân đội, quốc phòng, văn hóa, giáo dục,… Bây giờ thế và sau này vẫn thế. Bạn hiểu vì sao nghề này không thể “chết” rồi chứ.

8. Quân đội

Mặc dù nhân loại ngày càng tiến tới mục tiêu hòa bình, đối thoại hơn đối đầu, song các quốc gia vẫn không thể thiếu lực lượng quân đội. Và thực tế đã chứng minh rằng tiềm lực quân sự hùng mạnh là niềm hãnh diện của một quốc gia.

Tháp Bà Ponagar

Đến thành phố biển Nha Trang, bạn không thể không đến thăm khu Tháp Bà Ponagar - một trong những di tích lịch sử và văn hoá (đã được nhà nước xếp hạng) nổi tiếng của thành phố này.
Tháp bà Ponagar là một quần thể tháp với lối kiến trúc độc đáo của dân tộc Chăm, được xây dựng và tu bổ qua nhiều thời kỳ Cù Lao, nằm sát tả ngạn sông Cái Nha Trang.

Từ dưới chân núi ngay sát quốc lộ, theo những bậc đá đi lên bạn sẽ gặp một khu đất bằng phẳng khoảng hơn 200m2, có 10 trụ gạch lớn cao trên 5m xếp thành bốn hàng trên nền gạch rộng. Theo các bậc đá lên cao mãi tới đỉnh núi là một nền đất rộng khoảng 500m2. Nơi này hiện có bốn ngôi tháp, hai miếu thờ và một nhà nghỉ. Hai ngôi tháp lớn, một cao 18m, một cao 22,48m, được xây bằng gạch nung. Tháp lớn xây thành 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa giả, tượng thần và hình thú bằng đá. ở 4 góc có 4 tháp nhỏ, tạo những đường nét hết sức độc đáo. Tháp lớn nhất thờ nữ thần Ponagar (tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ Xứ Sở). Tượng nữ thần bằng đá hoa cương, đặt trên bệ đá hình đài sen, lưng tựa vào phiến đá lớn tạo hình lá đề. Tượng cao 260cm. Những đường nét trên thân hình tượng chắc, khoẻ, sống động, hai bầu vú căng tròn đầy sức sống và những nếp nhăn ở bụng tưởng như đang phập phồng theo hơi thở.

Theo truyền thuyết, ngày xưa tại núi Đại An (Đại Điển) có hai vợ chồng tiều phu đến cất nhà và làm rẫy trồng dưa nơi triền núi. Suốt một thời gian dài, hễ trái dưa nào chín tới đều bị mất. Ông lão rình và một hôm bắt gặp một cô bé khoảng 9-10 tuổi hái dưa rồi chơi dỡn dưới trăng. Thấy cô bé dễ thương, ông bèn đem về nuôi và thương yêu như con ruột. Hôm đó, trời mưa to gió lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, cô bé lấy đá chất thành ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào rồi đứng ngắm làm vui.

Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều lớn tiếng rầy la. Không ngờ co bé là tiên giáng trần buồn nhớ cảnh bồng lai. Đang buồn lại chợt nhìn thấy một khúc kỳ nam theo nước trôi đến, thiều nữ bèn hiến thân vào khúc kỳ nam cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ nam trôi ra biển rồi tấp vào đất Trung Hoa, hương toả ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ kéo đến xem. Thấy gỗ tốt, họ bèn xúm vào khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không khiêng nổi.

Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn bèn tìm đến xem hư thực và giơ tay nhấc thử. Thật kỳ lạ khi khúc gỗ bỗng nghẹ như tờ giấy, chàng liền đem về cung và nâng niu như báu vật. Một đêm, dưới ánh trăng mờ, thái tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam, nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, chỉ phảng phất mùi hương từ khúc kỳ nam bay ra. Những đêm sau đó, thái tử vẫn tiếp tục theo dõi... Rồi một đêm, chàng thấy từ trong khúc kỳ nam bước ra một giai nhan tuyệt sắc. Chàng vụt chạy đến, ôm choàng lấy giai nhân. Không biến kịp vào khúc kỳ nam, giai nhân đành theo thái tử về cung và cho biết lai lịch cũng như danh tính là Thiên Y Ana. Thái tử thấy nàng Ana xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc, sinh được hai con - một trai một gái, dung mạo khôi ngô tuấn tú. Một hôm, nỗi nhớ quê hương thúc giục, Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.

Núi Đại An còn đó, nhưng vợ chồng ông tiều phu đã về cõi âm. Thiên Y xây đắp mồ mả cho cha mẹ nuôi và sửa sang nhà của để phụng tự. Thấy nhân dân địa phương còn lạc hậu, bà dạy cày cấy, kéo vải, dệt sợi và đặt ra các lễ nghi... Từ đó, ruộng nương luôn tươi tốt, đời sống nhân dân mỗi ngày một thêm phong lưu. Đến một ngày, có con chim hạc từ trên mây bay xuống, Thiên Y cùng hai con cưỡi hạc bay về trời...

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức của Bà Thiên Y nên năm 817 đã xây tháp và tạc tượng thờ phụng. Hàng năm, vào ngày bà thăng thiên (23/3 âm lịch) đều có tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.

Nha Trang- Điểm Đến Của Các Hoa hậu Hoàn Vũ 2008

Thành phố Nha Trang và tỉnh Khánh Hòa đang cố gắng hết sức mình để chuẩn bị cho cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ tổ chức vào tháng 5/2008. Đây là sẽ sự kiện văn hóa mang tầm cỡ thế giới, góp phần quảng bá đất nước và con người Việt Nam.

Vừa qua, Chính phủ đã có văn bản đồng ý cho tỉnh Khánh Hòa tổ chức cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ 2008. Đây sẽ là dịp để quảng bá hình ảnh, con người thành phố Nha Trang cũng như Việt Nam trên quy mô thế giới, qua đó thúc đẩy việc thu hút đầu tư, quảng bá du lịch cho đất nước.

Theo đánh giá của Ban tổ chức thì thành phố Nha Trang có nhiều điều kiện thuận lợi để tổ chức thành công cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ 2008. Hiện nay, lãnh đạo tỉnh Khánh Hòa đang chỉ đạo các ngành chức năng khẩn trương, chủ động để hỗ trợ đơn vị tổ chức chuẩn bị cho cuộc thi. Trong đó, sở Xây dựng có phương án điều chỉnh lại quy hoạch, lập dự án đầu tư, thiết kế xây dựng, các thủ tục triển khai xây dựng sân khấu 7.500 chỗ. Sở Tài nguyên mô trường đẩy nhanh tiến độ xây dựng công viên Bạch Đằng, công viên Thanh Niên trên bờ biển đường Trần Phú.

Ông Lê Xuân Thân – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa cho biết: “Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng đã ký văn bản đồng ý cho phép thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa tổ chức cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ năm 2008. Theo đó, tỉnh Khánh Hòa có trách nhiệm tổ chức thành công cuộc thi theo những quy định chung của Nhà nước. Công ty cổ phần Hoàn Vũ (với các thành viên là Công ty CIAT, Việt CEO và Công ty Hoàn Cầu Nha Trang) đã có văn bản đồng ý chịu trách trách nhiệm xây dựng sân khấu 7.500 chỗ tại khu vực sông Lô, trị giá 8,7 triệu USD”.

Để tổ chức cuộc thi, dự kiến có 4.000 phòng dành cho Ban tổ chức và 300 phòng VIP. Điều này, hệ thống khách sạn thành phố Nha Trang đáp ứng được vì khách sạn từ 1 đến 5 sao có khoảng 10.000 phòng. Ngoài ra, theo phương án đã lập, trong thời gian diễn ra cuộc thi, Công ty cổ phần Hoàn Vũ sẽ thuê tàu 5 sao với sức chứa 1.000 đến 1.500 phòng neo đậu ở cảng Nha Trang để phục vụ du khách.

Ông Đỗ Văn Minh – Chủ tịch UBND xã Phước Đồng, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa cho biết: “Sau khi có thông tin Khu du lịch Sông Lô nằm trên địa bàn xã Phước Đồng là điạ điểm tổ chức đêm chung kết của cuộc thi hoa hậu Hoàn Vũ 2008, chúng tôi rất phấn khởi và đang chuẩn bị chu đáo để cuộc thi thành công”./.

Tết Trung Thu và Các Phong Tục

Tết Trung Thu theo Âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức múa lân, múa sư tử để các em vui chơi thoả thích.
Ở Việt Nam, ngày tết Trung Thu được diễn tả trong tục: "Ban ngày làm cỗ cúng gia tiên, tối đến bày cỗ thưởng Nguyệt. Đầu cỗ là bánh mặt trăng, và dùng nhiều thứ bánh trái hoa quả, nhuộm các màu sắc sặc sỡ xanh, đỏ, trắng, vàng. Con gái hàng phố thi nhau tài khéo, gọt đu đủ thành các thứ hoa nọ hoa kia, nặn bột làm con tôm con cá coi cũng đẹp".
Theo các nhà khảo cổ học thì Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Còn theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung Thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa. Nghiên cứu về nguồn gốc Tết Trung Thu, theo học giả P.Giran (trong Magiet Religion, Paris, 1912) thì từ xa xưa, ở Á Đông người ta đã coi trọng Mặt Trăng và Mặt Trời, coi như một cặp vợ chồng. Họ quan niệm Mặt Trăng chỉ sum họp với Mặt Trời một lần mỗi tháng (vào cuối tuần trăng). Sau đó, từ ánh sáng của chồng, nàng trăng mãn nguyện đi ra và dần dần nhận được ánh dương quang - trở thành trăng non, trăng tròn, để rồi lại đi sang một chu kỳ mới. Do vậy, trăng là âm tính, chỉ về nữ và đời sống vợ chồng. Và ngày Rằm tháng Tám, nàng trăng đẹp nhất, lộng lẫy nhất, nên dân gian làm lễ mở hội ăn Tết mừng trăng. Còn theo sách “Thái Bình hoàn vũ ký” thì: “Người Lạc Việt cứ mùa Thu tháng Tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Như vậy, mùa Thu là mùa của thành hôn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên nhân lúc tháng Tám gieo trồng đã xong, thời tiết dịu đi, là lúc “muôn vật thảnh thơi”, người ta mở hội cầu mùa, ca hát vui chơi Tết Trung Thu.
Ý nghĩa tết Trung Thu
Theo phong tục người Việt, vào dịp Tết Trung Thu, cha mẹ bày cỗ cho các con để mừng Trung Thu, mua và làm đủ thứ lồng đèn thắp bằng nến để treo trong nhà và để các con rước đèn. Cỗ mừng Trung Thu gồm bánh Trung Thu, kẹo, mía, bưởi và các thứ hoa quả khác nữa. Đây là dịp để cha mẹ tùy theo khả năng kinh tế gia đình thể hiện tình thương yêu con cái một cách cụ thể. Vì thế, tình yêu gia đình lại càng khăng khít thêm.
Cũng trong dịp này người ta mua bánh Trung Thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng và các ân nhân khác.
Người Trung Hoa thường tổ chức múa rồng vào dịp Trung Thu, còn người Việt múa sư tử hay múa lân. Con Lân tượng trưng cho sự may mắn, thịnh vượng và là điềm lành cho mọi nhà... Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát Trống Quân trong dịp Tết Trung Thu. Điệu hát trống quân theo nhịp ba "thình, thùng, thình".

Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
Ngắm trăng (Thưởng nguyệt)
Tết Trung Thu là tết của trẻ em. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh Trung Thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.

Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống... sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.
Bày cỗ
Mâm cỗ Trung Thu thông thường có trọng tâm là con chó[được làm bằng tép bưởi, được gắn 2 hạt đậu đen làm mắt. Xung quanh có bày thêm hoa quả và những loại bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm hoặc là loại bánh chay có hình lợn mẹ với đàn lợn con bép múp míp, hoặc hình cá chép là những hình phổ biến. Hạt bưởi thường được bóc vỏ và được xiên vào những dây thép, phơi khô từ 2-3 tuần trước khi đến hôm rằm, và đến đêm Trung Thu, những sợi dây bằng hạt bưởi được đem ra đốt sáng. Những loại quả, thức ăn đặc trưng của dịp này là chuối và cốm, quả thị, hồng đỏ và hồng ngâm màu xanh, vài quả na dai...và bưởi là thứ quả không thể thiếu được. Đến khi trăng lên tới đỉnh đầu chính là giây phút phá cỗ, mọi người sẽ cùng thưởng thức hương vị của Tết Trung Thu. Phong tục trông trăng cũng liên quan đến sự tích Chú Cuội trên cung trăng, do một hôm Cuội đi vắng, cây đa quý bị bật gốc bay lên trời, chú Cuội bèn bám vào rễ cây níu kéo lại nhưng không được và đã bị bay lên cung trăng với cả cây của mình. Nhìn lên mặt trăng, có thể thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, và trẻ em tin rằng, đó là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa.

Hát trống quân
Tết Trung Thu ở miền Bắc còn có tục hát trống quân. Ðôi bên nam nữ vừa hát đối đáp với nhau, vừa đánh nhịp vào một sợi dây gai hoặc dây thép căng trên một chiếc thùng rỗng, bật ra những tiếng "thình thùng thình" làm nhịp cho câu hát. Những câu hát vận (hát theo vần, theo ý) hoặc hát đố có khi có sẵn, có khi lúc hát mới ứng khẩu đặt ra. Cuộc đối đáp trong những buổi hát trống quân rất vui và nhiều khi gay go vì những câu đố hiểm hóc. Trai gái dùng điệu hát trống quân để hát trong những đêm trăng rằm, nhất là vào rằm tháng tám. Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Người ta dùng những bài thơ làm theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể để hát. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Tết Trung Thu của người Hoa không có phong tục này.
Múa sư tử (múa lân)
Vào dịp Tết Trung Thu có tục múa Sư tử còn gọi là múa Lân. Người Hoa hay tổ chức múa lân trong dịp Tết Nguyên Đán. Người Việt lại đặc biệt tổ chức múa Sư Tử hay Múa Lân trong dịp Tết Trung Thu. Con Lân tượng trưng cho điềm lành. Người Trung Hoa không có những phong tục này. Người ta thường múa Lân vào hai đêm 14 và 15. Ðám múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Ðầu lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của lân. Ngoài ra còn có thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân... Ðám múa Lân đi trước, người lớn trẻ con đi theo sau. Trong những ngày này, tại các tư gia thường có treo giải thưởng bằng tiền ở trên cao cho con lân leo lên lấy.
Trẻ em thì thường rủ nhau múa Lân sớm hơn, ngay từ mùng 7 mùng 8 và để mua vui chứ không có mục đích lĩnh giải. Tuy nhiên có người yêu mến vẫn gọi các em thưởng cho tiền. Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em và người lớn, Tết Trung Thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị v.v.

Nghệ Thuật Cải Lương

Nghệ thuật sân khấu cải lương ra đời trên mảnh đất Nam Bộ. Cách đây khoảng 3 thế kỷ, Nam Bộ là một vùng đất mới, các lưu dân Việt trong quá trình Nam tiến đã tới khai phá và định cư lại ở vùng đất màu mỡ này, truyền thồng văn hoá cũng theo chân họ tới đây, tiếp tục phát triển trong hoàn cảnh mới đã tạo nên những nét văn hoá đặc sắc...
Cải lương là một loại hình kịch hát hình thành trên cơ sở nhạc tài tử và dân ca Nam Bộ. Âm nhạc tài tử bắt nguồn từ sự kết hợp giữa nhạc dân gian và nhạc bác học (cụ thể là nhạc lễ và ca Huế) ở những loại bản lớn như Nam, Oán, Ngự. Điệu thức oán và hai điệu thức Bắc, Nam đã được kế thừa đủ sức phục vụ cho một sân khấu trữ tình hỷ, nộ, ái, ố. Thêm vào đấy là sự tiếp thu những đặc tính của dân ca Nam Bộ (giai điệu vừa là nhạc kể chuyện, vừa là nhạc đối đáp), đã tạo cho âm nhạc cải lương ngoài chất trữ tình, còn có chất tự sự, điều này đã làm nên đặc trưng nghệ thuật của sân khấu cải lương: đó là tính tự sự - trữ tình. Do vậy, trong nghệ thuật biểu diễn, ca và nói đều giữ vai trò quan trọng như nhau: ca kết hợp với nói, nói giữa hai bài ca, hay nói ngay trong lòng bản của câu ca. Cải lương đã nảy sinh từ một phong cách âm nhạc hầu như không có liên quan gì đến sân khấu kịch hát truyền thống, nên âm nhạc cải lương có thể coi là yếu tố đặc trưng nhất của loại hình nghệ thuật này. Từ bản Tứ đại oán cho đến Dạ cổ hoài lang, Vọng cổ đều là những bản nhạc thuộc điệu thức oán - một điệu thức đặc sản tinh thần Nam Bộ, và đều là bài bản chủ chốt của âm nhạc cải lương, phát triển cùng với sự phát triển của sân khấu cải lương. Sân khấu cải lương rất đa dạng về đề tài và phong cách biểu diễn: nó có thể miêu tả được tất cả các loại đề tài của cuộc sống mà không bị các điều kiện của thể loại gò bó, kết hợp được chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính ước lệ, cách điệu. Kết cấu của một vở cải lương bao giờ cũng gọn gàng, trọn vẹn, liên tục, hình ảnh nhân vật rõ ràng, chú ý nêu bật trọng điểm, cách bố cục gần với cuộc sống, đậm chất trữ tình, kết hợp được nhuần nhuyễn, chặt chẽ giữa tính dân tộc và tính phổ biến thế giới, do vậy cải lương dễ dàng đi vào các đề tài hiện đại, và đây là một thế mạnh của sân khấu cải lương trong hoàn cảnh hiện nay.
Nghệ thuật sân khấu cải lương ra đời trên mảnh đất Nam Bộ - cụ thể hơn là miền đồng bằng sông Cửu Long, trong vài thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Cách đây khoảng 3 thế kỷ, Nam Bộ là một vùng đất mới, các lưu dân Việt trong quá trình Nam tiến đã tới khai phá và định cư lại ở vùng đất màu mỡ này, truyền thồng văn hoá cũng theo chân họ tới đây, tiếp tục phát triển trong hoàn cảnh mới đã tạo nên những nét văn hoá đặc sắc. Đời sống âm nhạc của người dân Nam Bộ cũng phát triển trên cơ sở của nền văn hoá ấy, do vậy sinh hoạt ca hát của cư dân ở đây rất phong phú đa dạng. Đầu thế kỷ XX, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của người dân trên vùng đất mới ngày một tăng, những hình thức sân khấu trước đó chưa đáp ứng được (như nói thơ, nói truyện, hát bội...), đòi hỏi phải có một hình thức sân khấu mới, về nội dung tuồng tích gần gũi hơn với cuộc sống, về nghệ thuật phải thoả mãn được nhu cầu nghe ca và xem hát của khán giả. Trước tình hình đó, và trước ảnh hưởng của kịch nói Pháp, những màn ca ra bộ bắt đầu ra đời, đây là một hình thức trình diễn sân khấu: một ca khúc trong khi hát có cả minh hoạ bằng điệu bộ, là gạch nối của quá trình chuyển dần từ hình thái âm nhạc sang hình thái sân khấu. Sau một thời gian ca ra bộ chuyển dần sang hát chập. Hát chập là cách hát nhiều người cùng biểu diễn một bài ca, hoặc nhiều bài nối tiếp có chung một cốt truyện, có các động tác biểu diễn linh hoạt, phong phú. Hát chập càng ngày càng phát triển, từ một vài bài ca, cho đến lúc nhiều bài ca kết nối lại thành một vở diễn tương đối hoàn chỉnh, và vở cải lương đầu tiên ra đời là vở Lục Vân Tiên. Chỉ trong một thời gian ngắn (khoảng 1910 - 1920) cải lương ra đời, vừa tiếp tục định hình vừa phát triển nhanh chóng, và ngay từ khi mới ra đời cải lương đã là một sân khấu có kịch bản, có tác giả, không có hiện tượng chồng lớp của nhiều thế hệ vô danh như tuồng, chèo. Các gánh cải lương đầu tiên xuất hiện ở đồng bằng sông Cửu Long, rồi lần lượt các tỉnh Nam Bộ và Sài Gòn đều có, đến năm 1919 cải lương Nam Kỳ ra bắc, trước hết là ở Hà Nội, được các nghệ sỹ miền Bắc tiếp thu và học tập. Từ đó đến nay, qua gần một thế kỷ phát triển, cải lương đã thu được nhiều thành tựu rực rỡ, và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong cái nôi sân khấu truyền thống Việt Nam.

Nét Hài Hòa Trong Mâm Ngũ Quả

Ngày Tết, gia đình nào cũng có mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên, ông bà. Mâm ngũ quả bên cành đào, câu đối đỏ, bức tranh Tết, bánh chưng xanh... tạo nên khung cảnh ấm áp của mỗi gia đình khi Tết đến xuân về.

Không biết phong tục này có từ bao giờ, phải chăng vì đất nước ta vốn bốn mùa hoa trái, nhất là vào mùa Xuân hoa quả càng rộ. Hoa qủa là lộc của thiên nhiên, đất trời. Lộc Xuân càng quý. Dâng lộc trời, cúng ông bà, tổ tiên trong những ngày đầu Xuân thật là một tục lệ đẹp đẽ đầy nét nhân văn.

Cứ vào khoảng 28 tháng Chạp âm lịch thì nhà nhà đều cho bày biện một mâm ngũ quả kèm với nhiều sản vật khác trên bàn thờ. Mâm ngũ quả thường bày trên một cái mâm bằng gỗ tiện, sơn son, có chân, gọi là mâm bồng. Nếu không có mâm bòng, có thể bày trên một cái đĩa to, nhưng phải đặt trên chồng bánh chưng để tạo dáng cao, uy nghiêm, thành kính.

Mâm ngũ quả có 5 loại. Tại sao lại 5? Theo các vị cao niên, am tường về Nho giáo thì xuất xứ của mâm ngũ quả có liên quan đến quan niệm triết lý Khổng giáo của phương Ðông, thế giới được tạo nên từ năm bản nguyên - gọi là “ngũ hành”: Kim - Mộc - Thuỷ - Hỏa - Thổ, nghĩa là 5 yếu tố cấu thành vũ trụ. Còn theo quan niệm của dân gian thì “quả“ (trái cây) được xem như biểu tượng cho thành quả lao động một năm. Ông cha ta chọn 5 loại trái cây để cúng đêm giao thừa là ngụ ý rằng : Những sản vật này đựơc kết tinh từ công sức, mồ hôi, nước mắt của con người lao động, kính dâng lên đất trời, thần thánh trong giờ phút linh thiêng của vũ trụ vạn vật sinh tồn. Tư tưởng, hình ảnh ấy đã ăn sâu và tâm thức của người Việt Nam bao đời nay.

Ðã gọi là ngũ quả thì nhất thiết phải là 5 loại quả. Nhưng các vùng, các miền do mùa xuân hoa trái khác nhau, nên mâm ngũ quả cũng khác nhau như: chuối, bưởi, phật thủ, dưa hấu, cam, quýt, dừa, na, hồng xiêm, táo...

Mỗi quả mang một ý nghĩa:

Chuối - phật thủ: như bàn tay che chở.

Bưởi - dưa hấu: căng tròn, mát lành, hứa hẹn năm mới đầy ngọt ngào, may mắn.

Hồng - quýt: rực lên màu sắc mạnh mẽ, tượng trưng cho sự thành đạt.

Ở miền nam bộ ngày Tết hầu như nhà nào cũng có mâm lễ: Long - Lân - Quy - Phụng. Kết từ hoa quả - tứ linh hoàn toàn mang tính hình tượng như hoa quả kết thành “vật thực”, thể hiện lòng thành của con cháu tưởng nhớ gia tiên, cảm tạ ơn trời, ơn đất.

Mâm ngũ quả trong Nam cũng khác so với ngoài Bắc. Trên mâm ngũ quả ở ngoài Bắc thường có : Bưởi, đào, quýt, chuối, hồng. Có khi người ta thay bưởi bằng phật thủ hoặc lựu Mâm ngũ quả trong Nam vẫn cứ giữ nguyên truyền thống là mãng cầu, sung, dừa xiêm, đu đủ, xoài mà các bà thường quan niệm sơ đẳng là “cầu - sung - vừa - đủ - xài”.

Một mâm ngũ quả được bày dưới cùng là một nải chuối to già còn xanh, nải chuối đều, hoặc 2 nải chuối nhỏ ghép bên nhau như một chiếc bệ cong gồm 2 tầng nâng đỡ hoàn toàn hoa trái khác. Ở đây có sự phối hợp màu sắc, mâm ngũ quả đẹp là đủ màu sắc rực rỡ. Chính giữa bệ mâm xanh sẫm, trước đây bày quả phật thủ . Ngày nay ít trồng phật thủ nên thường thay bằng quả bưởi to, càng to càng đẹp. Bưởi chín vàng, tươi nổi bật trên bệ chuối màu xanh. Những quả chín đỏ đặt xung quanh, những chỗ khuyết dưới đặt xen kẽ quýt vàng và táo màu xanh ngọc, còn bao nhiêu lá xanh cố tình để sót lại ở cuống quả như hoàn thiện những nét trang trí cuối cùng.

Vài năm gần đây, mâm ngũ quả cúng Tết đã có nhiều thay đổi nó không còn ngũ quả nữa mà đã trở thành “lục, thất, bát... quả” vì bên cạnh có thêm những đặc sản cao cấp như: nho, lê, táo... tùy theo cách nghĩ và túi tiền của mỗi gia đình.

Mâm ngũ quả đã làm quang cảnh ngày Tết và không gian cúng thêm phần ấm áp, rực rỡ mà hài hoà. Nó thể hiện sinh động ý tưởng triết lý - tín ngưỡng - thẩm mỹ ngày Tết. Tìm hiểu về mâm ngũ quả cũng là tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử, truyền thống tốt đẹp để chúng ta nhớ lại ông bà, tổ tiên.

Điệu Hò Ru Con Của Người Việt

Nhìn từ một góc độ nào đó, điệu hò ru con là chất liệu tinh thần ban đầu của tuổi thơ. Vừa ươm mầm nhân ái, vừa chủng ngừa các bệnh tật lúc sơ sinh. Mẹ, chị đã gieo vào tâm hồn tuổi thơ những hạt giống lành về nhân ái, đạo lý làm người, về tình yêu quê hương xứ sở.
Như mọi miền đất nước trên thế giới, dân tộc nào cũng có loại hình văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại (huyền thoại, huyền tích, tục ngữ, câu đố, truyện cười, tuồng hài, ca dao, hò vè...) mà trong đó điệu hát hay còn gọi là hò ru con (ru em) là hình thức diễn xướng ở làng quê nào trên dải đất Việt Nam cũng có. Hò ru con có nét giống nhau là thường dùng thể thơ lục bát (6-8) với làn điệu nhẹ nhàng, lời ca thường đệm thêm nhiều tiếng không có nghĩa xác định. Chỗ khác nhau là về trường độ, cao độ, về sắc thái âm điệu, tiếng đệm... Hò ru con có một giá trị nhất định trong kho tàng văn chương bình dân của đất nước Việt Nam mà lực lượng thể hiện là người phụ nữ Việt Nam qua nhiều năm tháng.

Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao thẳng tao dùi tao nhớ tao thương

Chỉ với hình ảnh bốn tao nôi nhưng đã chứ đựng biết bao điều đã nói về cuộc sống, về sự hình thành nhân cách của tuổi thơ, của một đời người mà mẹ, mà chị đã gửi gắm trọn vẹn tấm lòng qua câu hò, điệu hát:

Cất lên một tiếng la đà
Cho chim nhớ tổ cho ta nhớ mình...

Hò ru con là hình thức diễn xướng quen thuộc của quê hương mình được truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhằm biểu hiện những trạng thái tình cảm của người phụ nữ mà tuổi thơ là đối tượng trực tiếp được hưởng thụ, thưởng thức những giai điệu ngọt ngào, đằm thắm. chan chứa niềm yêu.

Nghe mẹ hát, bé có hiểu gì đâu những nội dung sâu sắc của cái hồn ca dao về nhân tình thế thái, vì có lúc mẹ mượn bốn tao nôi để nói với cuộc đời, nói với người thương về một nỗi đắng cay bất hạnh hay nói về nguồn hạnh phúc tràn trề trong cõi người ta.

Có phải trưa nay chị nhớ người thương
Nên mượn cớ ru em để lòng mình thương nhớ
Có phải ngàn năm thương thương nhớ nhớ
Khiến tiếng đàn bầu nghe xé ruột vò gan...

(Nhớ Huế “Tô Kiều Ngân”)

Cũng có khi hồn đất nước đượm màu trong lời ru mẹ, nuôi dưỡng tình tự quê nhà, ý thức chống ngoại xâm trong mỗi lời ca dạy cho ta bài học về tổ quốc:

Con ơi con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng

Lời ru êm ả, tiếng mẹ, tiếng chị dịu dàng nâng giấc ngủ tuổi thơ bay vào mộng cảnh. Có giấc ngủ tốt, sức khoẻ tăng đều, có hơi thở điều hoà, tâm hồn tuổi thơ thanh thản. Và bé vẫn chưa hiểu gì trong nội dung bài hát. Chỉ có âm hưởng là lắng đọng, là chất liệu tuyệt vời giúp bé bình yên. Và chị, và mẹ vẫn cất lên nỗi đau một thời về thân phận người phụ nữ:

Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp là cơm nguội để khi đói lòng

Tháng Giêng, tháng Hai anh còn mê tam cúc, yêu lượng
Tháng Ba, tháng Tư anh còn mê mã tượng pháo xe
Em can anh anh chẳng hề nghe
Đầu em đội bó củi nè thảm chưa

Nỗi đau thầm nén vào lời ru và tao nôi vẫn đưa đều trong trưa, trong khuya lặng lẽ:

Anh buồn có chốn thở than
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya.

Đó là về một nỗi đau của chị, của mẹ trong cuộc tình sầu. Nhưng không chỉ có thế, tình mẹ, tình chị còn dành cho con, cho em nữa chứ. Cái nghĩa thiêng liêng mẫu tử; niềm khát vọng về một ngày mai con trưởng thành luôn đầy ắp trong lời ru thiết tha:

Mẹ thương con ruột thắt gan bầm
Ví như bông sen díp lại khốn cầm dễ buông
Con ơi đừng khóc mẹ sầu
Cây khô vì hạn mẹ rầu vì con

Mẹ hát, chị ru và có một ngày lớn khôn con hiểu:

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừ a cá xương

Hò ru con là giai điệu sống bền cùng thời gian, cuộc sống. Nội dung những câu hò hàm súc, phong phú đề cập nhiều điều của quá khứ, hiện tại, những khát vọng, mơ ước tới tương laị..Là tình tự quê nhà dấu yêu giúp ta có niềm kiêu hãnh về dân tộc, về đất đai, xứ sở.

Thương chi bằng nỗi thương con
Nhớ chi bằng nhớ nước non quê nhà

Ru em cho théc cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ mua trầu chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón Mậu Tài bán kim

Từ đất đai mẹ dạy con những điều nhân nghĩa, biết lao động, biết sản xuất nhằm xây dựng nước non nhà:

Ai ơi uống rượu thì say
Bỏ ruộng ai cày, bỏ giống ai gieo

Nội dung hò ru con là bản trường ca bất tận cùa kho tàng văn chương Việt. Có khichị, mẹ hát về nhân nghĩa cuộc đời, có khi hát về đạo lý làm con, về sự thuỷ chung chồng vợ...Điệu hò thấm sâu vào tâm thức tuổi thơ, nội dung câu hò lộ dần ra theo độ tuổi. Càng lớn càng hiểu thêm điều mà mẹ, chị từng gửi gắm cho ta. Khôn ngoan theo thời gian, trưởng thành cùng câu hát. Ta biết ơn vô cùng giọng hò ru ta từ thuở nằm nôi:

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ

Nhìn từ một góc độ nào đó, điệu hò ru con là chất liệu tinh thần ban đầu của tuổi thơ. Vừa ươm mầm nhân ái, vừa chủng ngừa các bệnh tật lúc sơ sinh. Mẹ, chị đã gieo vào tâm hồn tuổi thơ những hạt giống lành về nhân ái, đạo lý làm người, về tình yêu quê hương xứ sở. Hình ảnh vầng trăng, ngọn cỏ, cánh diều, bóng dáng luỹ tre làng, dòng sông thơ ấụ..tất cả những sự vật cụ thể ấy đã trở thành ý niệm sống thiết thân từ ấu thời cho đến lúc trưởng thành. Trí tuệ, tâm hồn tuổi thơ cứ thẩm thấu, thấm nhuần những giá trị tình cảm đậm đà, những món ăn tinh thần thuần khiết thiêng liêng cao cả ấy.

Mong sao dù bất cứ không gian, thời gian, hoàn cảnh, địa hình... nào, người phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ Huế nói riêng cũng khôn khéo dạy con bằng những giai điệu hát ru của quê hương dân giã. Và bằng vốn liếng truyền thống văn hoá của mình mẹ và chị sẽ cho tuổi thơ được tắm mình trong ngọn nguồn ca dao đằm thắm, cho mai ngày lớn khôn sẽ trở thành những người gương mẫu, đạo đức, đóng góp cho đời nhiều công ích với nhân cách Việt Nam

Dân ca Nam Bộ

Nói đến nghệ thuật ca hát dân gian cổ truyền Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong một số làn điệu vọng cổ hay bài bản Cải lương, ca nhạc tài tử, thì quả chưa đầy đủ. Mặc dầu chúng ta không phủ nhận tính hấp dẫn, yếu tố truyền cảm gây xúc động mạnh của các thể loại ca hát đó, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu mà xem xét, thì sự phiến diện nói trên có thể đưa đến những nhận định không toàn diện, và hiện tượng nhầm lẫn giữa ngọn và gốc có thể xảy ra. Nội dung vấn đề trao đổi của bài viết này nhằm tìm hiểu tính chất phong phú của nền dân ca Nam Bộ, một bộ phận trong kho tàng âm điệu dân gian phong phú và quí báu của đất nước ta.

Nói đến Nam Bộ, chúng ta nghĩ đến một vùng đất màu mỡ có phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp hữu tình, có tài nguyên giàu có, trù phú. Không thể quên được con người Nam Bộ với tính tình cởi mở, hào hiệp, nặng nghĩa nhiều tình... mà hình như đất nước thiêng liêng đã dành riêng cho mảnh đất phương Nam này! Từ Đồng Nai, Long Khánh, Biên Hòa, Đất Đỏ... với những lô cao su thẳng tắp, bạt ngàn, sừng sững hiên ngang... như muốn vươn lên hàng triệu cánh tay xanh biếc, rậm dày... che kín cả khoảng trời mênh mông... chúng ta đi dần xuống miền châu thổ Cửu Long với những cái tên nghe "là lạ" "dễ thương" như: Mỹ Tho, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch Giá... băng qua những "tấm thảm vàng tươi" đang óng ánh trĩu cành phơi mình dưới ánh nắng chói chang của miền gần xích đạo. Sau đó, chúng ta sẽ được nhẹ nhàng, ung dung khua từng nhịp chèo nhặt khoan trên những dòng kênh lăn tăn gợn sóng, dưới những rặng dừa xanh vào những buổi chiều êm đẹp... rồi để có dịp bâng khuâng nghe những câu hò về đêm ngân vang dòng sông, bến nước... và khi tới tỉnh Minh Hải lắm cá nhiều tôm, đặt chân lên mũi Viên An, mỏm đất tận cùng của quê hương phương Nam... nghe biển Đông sóng vỗ quanh năm, một lần nữa, chúng ta càng được khẳng định thêm về khả năng vĩ đại chinh phục thiên nhiên, cải tạo hiện thực của con người trước bao nhiêu biến cố. Phải chăng phong cảnh thiên nhiên của thực tại vốn tràn đầy thơ mộng, nên càng khơi nguồn âm điệu dạt dào cho dân ca Nam Bộ giàu chất trữ tình, đậm màu thi vị... chắp cánh cho những hoài bão ước mơ sớm trở thành hiện thực...

Chúng ta hãy làm quen với một đoạn hò tâm tình:

... Hò ơi!... Nho nhỏ như ai, chớ còn nho nhỏ như em đây luôn chặt dạ bền lòng. Dẫu cho nước Đồng Nai có chảy cạn, đá Đồng Nai có bị mòn, thì thủy chung như nhứt, trước sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền... ơ

(Hò miền Đông Nam Bộ)

Hay những lời "oán trách" nhau trong điệu hò Trà Vinh:

Hò ơi... Tay cắt tay bao nỡ... ruột cắt ruột sao đành! Một lời thề biển cạn non xanh. Chim kêu dưới suối, vượn hú trên nhành, qua không bỏ bậu ơ ơ... mà sao bậu đành bỏ qua ơ ơ...

Cũng như tên nhiều miền của đất nước, hò là một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ nói riêng. Hò được gắn liền với sông nước, với khung cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng phóng khoáng, tự do, mang ít nhiều nhân tố "tự sự", "vịnh thán", hò thường được dùng để ngợi ca hay đề cao một đạo lý tốt đẹp nào đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin yêu chặt dạ bền lòng... Âm điệu của các thể loại hò ở từng địa phương thường không giống nhau về chi tiết luyến láy, về cách xử lý các "âm điệu" giữa câu, hay có đôi khi cũng khác nhau về kết cấu toàn bộ. Thí dụ như: hò Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc "át âm", nhưng trong lúc tuy cùng một điêu thức "xon", nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh, thì lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn.

Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể hiện được tính cách riêng biệt, màu sắc độc đáo, chứ không phải là không có dụng ý. Thông thường do ý nghĩa của nội dung lời hò giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò này được tiến hành theo đường nét bình ổn, "lên dần" hoặc "xuống dần", cố tránh những bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra một phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu "ngân nga, tự sự", nặng đi vào chiều sâu lắng hơn là ầm ĩ, huyên náo. Hoàn cảnh xã hội ngày càng thay đổi, nên nội dung và hình thức hò cũng được cải biên và bổ sung cho thích hợp. Ví dụ như, khi Mặt trận Bình dân bên Pháp chiếm được nhiều thắng lợi trên địa hạt chính trị, thì ở Nam Bộ, kế bên những loại hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò truyện... lại xuất hiện thêm một loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những vấn đề chính trị cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng. Sau đây là một đoạn của hò quốc sự.

Nữ (vấn):

Hò ơi! Trên đời mọi vật bẩn nhơ
Đều nhờ rửa nước trở nên trong lành
Đến khi nước phải nhơ tanh
Lấy gì mà rửa xin anh phân cùng...

Nam (đáp):

Hò ơi! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng
Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay
Hi sinh bao quản thân dài
Máu đào từng rửa, "nước" rày thành trong...

Nội dung lớn của hò phần lớn dựa trên cơ sở của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có thể giữ nguyên, hoặc có khi lại mở rộng dài hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế việc sáng tác ra những câu hò được đông đảo quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm mộ của quần chúng. Về tháng Bảy Âm lịch, thường là mùa cấy rộ và cũng là lúc mà các "vạn" cấy (như phường, hội) được có dịp trổ tài vừa cấy giỏi lại vừa hò hay... và dĩ nhiên sau những lần gặp gỡ, biết mặt... biết tài nhau... là đến những lời hò hẹn cho những ngày sau mùa gặt hái...

Kế bên những điệu hò trữ tình, êm dịu, dân ca Nam Bộ còn bao gồm những bài hát lý (hay là những điệu lý). Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, mang tính chất lạc quan yêu đời rõ nét với các nhịp điệu phong phú và sinh động.

Như bài Lý ngựa ô (Nam Bộ):

Lý con ngựa... ngựa ô (2 lần)
Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen
Búp sen lá đậm - Dây cương đầm thấm
Cán roi anh bịt đồng thà...
Lá anh í a đưa nàng... là anh đưa nàng về dinh (2 lần)

... Nhưng cũng có khi, lý lại được pha lẫn vào chút ít màu sắc trữ tình man mác như bài Lý lu là:

Ai về giòng dứa mà qua truông
Nhắn thăm lu là với bậu ơ bậu ơi!
Bỏ buồn cho nàng ơi! mà cho ai?
Bỏ buồn cho nàng ơi! mà cho anh!

Xét về phương diện âm hưởng nói chung toát ra từ các điệu hò và Lý Nam Bộ, chúng ta rút ra được chất tinh khiết, chân thật, tuy mộc mạc, pha lẫn chút ít âm điệu mênh mông của hò, với nhịp điệu sinh động, vui phơi phới đầy tươi mát của các điệu lý. Đặc biệt về mặt kết cấu, lý cũng có những phân biệt câu cú, khúc, đoạn rõ ràng. Sự trình bày phần âm điệu được mạch lạc, có tính nhất quán toàn bộ, và dễ phát hiện, không cầu kỳ, phức tạp, ngổn ngang.

Cách vận dụng và xử lý các hệ thống điệu thức dân gian 5 cung hoặc 7 cung, hoặc 5 cung có thêm bớt bất thường trong thể loại lý, càng tạo thêm được nhiều sắc thái về giọng điệu, càng làm phong phú thêm, mở rộng ra nhiều khả năng kết hợp chặt chẽ giữa âm điệu và ngôn ngữ. Hiện nay, theo chỗ chúng tôi được biết thì các cơ sở nghiên cứu đã sưu tầm và chỉnh lý hơn 40 điệu lý như: Lý con sáo, Lý giao duyên, Lý cây bông, Lý chúc rượu, Lý chia tay, Lý cây gòn, Lý con chuột, Lý bình vôi v.v...

Mỗi điệu lý nói trên đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất (như Lý đất dòng chẳng hạn), hoặc ca ngợi những đức tính tốt trong cuộc sống (như Lý Ba Tri), cái đẹp trong thiên nhiên (Lý cây xanh) hoặc oán trách nhau (như Lý lu là) hoặc mỉa mai, châm biếm bọn lý trưởng, cường hào (như Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con sam). Các chủ đề nhạc trong các điệu lý rất nhiều vẻ, dưới những hình thức rất độc đáo, nhưng lại rất quen thuộc với phong vị cổ truyền của quần chúng từ lâu đời.

Trong quá trình cải biên, bổ sung, dĩ nhiên có một số chủ đề trong các điệu lý được sáng tạo, nâng cao. Trong số ấy, chúng ta có thể lấy bài Ru con làm ví dụ. Từ bài Lý giao duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên của Nam Bộ đã tiến lên trong một quá trình hoàn chỉnh hơn dưới một tựa đề mới là Ru con. Đó cũng là một quy luật, một đặc điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vốn dân gian cổ truyền để chúng ta phân biệt được tính giao lưu và tính bổ sung đổi mới luôn luôn của nó.

Lời bài hát Ru con, dân ca Nam Bộ:

Gió mùa thu... Mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy thức đủ vừa năm
Hỡi chàng... chàng ơi!
Hỡi người... người ơi!
Em nhớ tới chàng... Em nhớ tới chàng!
Hãy nín! nín đi con!
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời... con hỡi...
Con hỡi... con hời... hỡi con!...

Toàn bộ nội dung của bài hát được diễn tả trong sáu câu. Chỉ với 6 câu thôi, nhưng cũng đủ để vẽ nên một "bức tranh âm thanh" tuyệt diệu:

..."Giữa một đêm thu tĩnh mịch... lắng nghe từng cơn gió lành lạnh nhẹ lướt ngoài khung cửa... người mẹ trẻ ấy... vừa ru con, vừa nghĩ đến người thương... vừa nghĩ đến người thương, vừa ru con!...". Âm điệu đơn giản, lời lẽ ngắn gọn, cô đọng đến mức không thể nào thêm được vào đấy một nốt hay một chữ nào nữa cả...

Sự kết hợp như hình với bóng của âm điệu và lời ca đã thúc đẩy thêm nhanh chóng sự gần gũi giữa hình tượng nghệ thuật và quần chúng. Có những lúc, chúng ta như nghe được cả những nức nở, nghẹn ngào... đang trào lên từng đợt, từng đợt như:

Hãy nín! nín đi con
Hãy ngủ! ngủ đi con!
Con hời.. con hỡi

Toàn bộ bài hát được kết thúc bằng một sự đóng lại thư thả trên đường nét đi xuống của giai điệu chậm rãi... nhỏ dần... và chấm dứt... nhưng chúng ta như vẫn còn thấy đọng lại đâu đây hình ảnh người thiếu phụ đêm thu... ru con ngủ..., hình ảnh của một sự đợi chờ... của một lòng sắt son chung thủy!

Chất liệu dân ca Nam Bộ đã được nhiều nhạc sĩ quen biết vận dụng vào những ca khúc hiện đại, và có nhiều ca khúc thành công. Bằng những phong cách riêng biệt, bút pháp độc đáo của mình, các nhạc sĩ kể trên đã góp công một cách đáng kể vào quá trình kế thừa, tiếp tục phát huy và nâng cao hơn nữa chất liệu quý báu cổ truyền của dân ca Nam Bộ đã được nhân dân từ thế hệ này sang thế hệ khác gìn giữ và nuôi dưỡng...

Dân ca là một mảnh đất trù phú, một kho tàng âm điệu vô tận, nơi tập trung của tất cả những nhân tố thể hiện trực tiếp nhất, sinh động nhất tính cách dân tộc của một địa phương hay một dân tộc nào đó. Và nền âm nhạc chuyên nghiệp với tất cả những hình thức phong phú muôn màu muôn vẻ của nó cũng đều bắt nguồn từ di sản dân tộc, từ vốn cổ truyền của thế hệ trước để lại. Vì thế, tìm hiểu được kho tàng quý báu ấy đã là một chuyện không dễ, nhưng cái khó hơn hết, cái quyết định hơn hết là cần phải biết gạn đục, khơi trong, phải biết chọn lọc, lấy ra cái gì "tinh" nhất để phục vụ tốt cho cái hiện tại. Đó là vấn đề rất thiết yếu mà các nhạc sĩ nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn, huấn luyện, không riêng cho một địa phương nào, đều nhận thấy trách nhiệm của mình trước nhân dân trong việc xây dựng một nền văn học nghệ thuật tiên tiến có tính chất dân tộc và tính nhân dân sâu sắc.

Chiếc Nón Việt Nam

Cùng với áo dài, áo cánh, váy lĩnh, yếm đào, thắt lưng bao... chiếc nón được coi là một thứ phục trang truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Trước hết, nón là một đồ dùng rất "thực dụng". Nó dùng để che mưa nắng. Nón chóp nhọn đầu, nón thúng rộng vành, nón ba tầm như nón thúng nhưng mảnh dẻ hơn... tất cả đều để che chắn cho những con người sống trên một dải đất nắng lắm mưa nhiều. Dù nón có nhiều loại, song nét đặc thù chung của nó là rộng vành (để chống nóng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa). Ngoài chức năng ứng phó với môi trường tự nhiên, chiếc nón còn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người và phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của người Việt: đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Dưới vành nón, đôi mắt, nụ cười, lúm đồng tiền, những sợi tóc mai, cái gáy trắng ngần của cô gái dường như được tôn thêm nét duyên dáng, kín đáo mà không kém phần quyến rũ...
Người ta đội nón làm đồng, đi chợ, chơi hội. Tiễn cô gái về nhà chồng, bà mẹ đặt vào tay con chiếc nón thay cho bao nhiêu lời nhắn gửi yêu thương... Chiếc nón gợi nguồn cảm hứng cho thơ, cho nhạc. Đã có hẳn một bài về hát về nón: "Nón bài thơ, em đội nón bài thơ, đi đón ngày hội mở"... Giữa những kênh rạch, sông nước chằng chịt ở miệt vườn Nam Bộ, ai đó đã phải ngẩn ngơ vì: "Nón lá đội nghiêng tóc dài em gái xõa". Chiếc nón còn gợi nhớ dáng mẹ tảo tần: "Quê hương là cầu tre nhỏ/Mẹ về nón lá nghiêng che...". Trong những năm chiến tranh, tiễn người yêu ra chiến trường, các cô gái thường đội nón với cái quai mầu tím thủy chung. Chỉ như vậy thôi đã hơn mọi lời thề non, hẹn biển, làm yên lòng người ra trận...

Chiếc nón xuất hiện từ khi nào không ai biết. Từ thời xưa đã có câu: "Nón chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ". Chiếc nón quai thao đã được các bà, các cô (tầng lớp trung lưu trở lên) ưa chuộng, chiếm vị trí quan trọng trong trang phục lễ hội của phụ nữ mà thời Nguyễn được sử dụng phổ biến nhất. ở Hà Nội xưa, các "cô ả" mười lăm, mười sáu - cái tuổi bắt đầu làm duyên, thường đi sắm chiếc nón Nghệ. Về cái nón Nghệ, nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy mô tả kỹ lưỡng thế này: "nón rộng đến 80 cm, sâu 10 cm, lần lót đan bằng sợi tre rất nhỏ, đằng sau cài những mảnh gương vào. Nón Nghệ nặng lắm vì thế, cái "khua" phải cứng, sơn quang dầu. Lên Hàng Bạc sắm một bộ "chiên, thẻ". Chiên là miếng bạc vuông, trong đó có vòng tròn, chạm hai rồng chầu mặt nguyệt. Hai chiếc thẻ cũng bằng bạc, to như quân bài tam cúc, chạm hoa lá, ở giữa có cái vòng để buộc quai thao. Cắm hai cái thẻ vào bên trong nón, đặt cái chiên vào đáy khua, rồi chờ phiên chợ hàng tơ, các bà làng Triều Khúc ra bán quai thao. Một bộ quai thao gồm tám sợi bằng tơ, mỗi sợi gồm nhiều sợi tơ, ngoài bọc tơ dệt liên tục, như bấc đèn con. Quai thao dài độ 1,5m. Hai đầu mỗi sợi thao là một quả găng, từ đó rủ xuống những chỉ tơ, dài độ 20 cm. Phải đưa thao mộc đi nhuộm thâm, nhuộm kỹ". Chỉ như thế cũng đủ biết chiếc nón được làm công phu đến mức nào.


Về cái quai thao của nón cũng rất nhiều chuyện thú vị. Có hẳn một làng giữ nghề làm thao. ấy là làng Triều Khúc (Thanh Trì - Hà Nội) nổi tiếng dệt quai thao nón dẹt nên còn có tên là Làng Đơ Thao (để phân biệt với làng Đơ Bùi, Đơ Đồng cũng ở gần đấy, chuyên nghề làm ruộng). Làng này còn có đền thờ, tượng, và sự tích tổ sư nghề Thao là Vũ úy, thời Lê - Trịnh (thế kỷ 17-18) được cử sang sứ Trung Hoa và học được nghề dệt Thao, khi về vua phong làm "Cục trưởng cục Thao" và tổ chức dạy nghề này cho dân làng Triều Khúc - Đơ Thao. Mộ cụ tổ nghề ở cánh đồng Miễu. Bia tạc đời Cảnh Hưng thứ sáu (1745). Bây giờ người làng vẫn còn truyền tụng câu ca như một niềm tự hào:

Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao dệt khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho...

Thực ra, chiếc nón không hẳn là thứ phục trang chỉ dành cho phụ nữ. Bước chân vào một cửa hàng ở phố Hàng Nón - Hà Nội xưa, người ta có thể nhìn qua chiếc nón mà thấy đủ thứ "tước vị", "giai tầng" trong xã hội. Có nón "mũ chảo", nón "nông dân xứ Đoài". Các anh chạy xe ba gác thì kiếm một cái "nón cu li" ba xu. Các cậu lính lệ, phục dịch cửa quan thì đã có "nón lính" làm bằng thanh tre ken lại, giống như cái đĩa úp lên đầu, trên có chỏm đồng, sau có lưỡi vải che gáy. Mà trong "nón lính" lại còn có nón lính ma tà, rồi khố đỏ, khố xanh. Các bà ngồi chợ bao giờ vào hàng cũng tìm nón Nghệ, nón "nhị thôn", nón "ba tầng" treo đung đưa trên mái nhà... Đấy là các loại nón dành cho "dân đen" còn các "quan phụ mẫu" dùng kiểu khác: tổng lý ưa nón lông quạ, bông bèo đồng, các quan nhỏ chuộng nón chóp và bông bèo bạc, các cụ lớn thì dứt khoát phải nón lông trắng, bông bèo vàng. Các tao nhân nữ sĩ thì lùng cho kỳ được nón dứa Huế, Gò Găng, nhẹ và thanh lắm.

Chiếc nón không chỉ là thứ đội đầu, che mưa, nắng. Trong khi dùng người ta còn "sáng tạo" ra bao nhiêu là công dụng. Này nhé: "Mùa nắng thì chụp lên đầu, có gió thì che diêm mà hút thuốc lào, mỏi thì lót xuống ngồi, khát không có hàng nước thì hứng nước máy, lại còn lúc ngồi ngủ ở xe thì úp lên mặt cho ruồi khỏi bu lại, lúc nóng thì làm quạt... mà túng nữa thì làm cái rổ đựng đồ mua chợ cho mẹ..." (Tam Lang - Tôi kéo xe

Chất hóm hỉnh trong ca dao tình yêu

Sự mộc mạc hồn nhiên ở từ ngữ, cách thể hiện dung dị và ngộ nghĩnh gây nên những bất ngờ thú vị là chất hóm hỉnh thường thấy trong ca dao tình yêu Nam Bộ. Đó cũng là biểu hiện tính cách đặc trưng của người dân nơi đây.

Trước hết là chất hóm hỉnh không cố tình, không dụng công, toát ra một cách tự nhiên qua những từ ngữ mộc mạc; không hề chau chuốt chân thật đến độ người nghe phải bật cười. Một anh chàng quá đỗi si tình đã trở thành "liều mạng":

"Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông"

Một cô nàng thật thà cả tin đã giật mình "hú vía" vì kịp thời nhận ra "chân tướng" đối tượng:

"May không chút nữa em lầm
Khoai lang khô xắt lát em tưởng cao ly sâm bên Tàu"

Có những nỗi niềm tương tư ấp ủ trong lòng, nhưng cũng có khi người ta không ngại ngần thổ lộ trực tiếp với bạn tình:

"Tôi xa mình hổng chết cũng đau
Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền"

Họ là những người lao động chân chất, nên cũng bày tỏ tình cảm với nhau bằng thứ khẩu ngữ thường ngày không chưng diện, màu mè, tuy vậy, cái tình trong đó cũng mãnh liệt và sâu sắc.

Đây là lời tâm sự của một anh chàng đêm hôm khuya khoắt lặn lội đi thăm người yêu:

"Thương em nên mới đi đêm
Té xuống bờ ruộng đất mềm hổng đau
May đất mềm nên mới hổng đau
Phải mà đất cứng ắt xa nhau phen này"

Chàng thật thà chất phác, nhưng mà cũng có chút ranh ma đấy chứ? Chất hóm hỉnh đã toát ra từ cái "thật thà tội nghiệp".

Nhưng phần lớn vẫn là sự hóm hỉnh mang tính chất đùa nghịch. Một chàng trai đã phóng đại nỗi nhớ người yêu của mình bằng cách so sánh ví von trào lộng:

"Vắng cơm ba bữa còn no
Vắng em một bữa giở giò không lên"

Nỗi vấn vương tơ tưởng đi vào tận giấc ngủ khiến chàng trở nên lú lẫn một cách buồn cười:

"Phòng loan trải chiếu rộng thình
Anh lăn qua đụng cái gối, tưởng bạn mình, em ơi!"

Nhưng cái độc đáo là ở đây nỗi niềm đó lại được bộc lộ một cách hài hước:

"Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa
Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều"

Có một chút phóng đại làm cho lời nói nghe hơi khó tin! Nhưng hề gì. Chàng nói không phải cốt để đối tượng tin những điều đó là sự thật mà chỉ cốt cho nàng thấu hiểu tấm tình si của mình. Nàng bật cười cũng được, phê rằng "xạo" cũng được, miễn sao hiểu rằng mình đã phải ngoa ngôn lên đến thế để mong người ta rõ được lòng mình.

Lại có một chàng trai đang thời kỳ tiếp cận đối tượng, muốn khen cô nàng xinh đẹp, dễ thương mà khó mở lời trực tiếp. Để tránh đột ngột, sỗ sàng, chàng đã nghĩ ra một con đường vòng hiếm có:

"Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ thương"

Mục đích cuối cùng chỉ đơn giản là khen "mình dễ thương" mà chàng đã vòng qua năm non bảy núi. Bắt đầu từ thế giới tự nhiên - trong thế giới tự nhiên lại bắt đầu từ ông trời - tạo hóa sinh ra những loại cây, hoa đẹp đẽ - rồi mới bước qua thế giới của loài người - trong thế giới loài người lại từ hiện tại ngược dòng lịch sử để bắt đầu từ tổ tiên ông bà, tới thế hệ cha mẹ, rồi tới nhân vật chính - "mình". Thật là nhiêu khê, vòng vo tam quốc làm cho đối tượng hoàn toàn bất ngờ. Những lời ngộ nghĩnh kia dẫn dắt tới sự hiếu kỳ háo hức muốn biết "chuyện gì đây", cho đến khi cái kết cục thình lình xuất hiện làm cho cô nàng không kịp chống đỡ... Nhưng mà nó thật êm ái, thật có duyên biết bao, nên dù phải đỏ mặt, cô hẳn cũng vui lòng và không thể buông lời trách móc anh chàng khéo nịnh!

Ngược lại, cũng có những lời tỏ tình khá táo bạo, sỗ sàng, nhưng hình ảnh thì lại hết sức ngộ nghĩnh, dí dỏm:

"Con ếch ngồi dựa gốc bưng
Nó kêu cái "quệt", biểu ưng cho rồi"

Những người nghe câu "xúi bẩy" này không thể không bật cười, còn đối tượng xúi bẩy cùng lắm cũng có thể tặng cho người xúi có phần trơ tráo kia một cái nguýt dài.

Những câu ca dao hóm hỉnh không chỉ bật lên từ tâm trạng đang vui, tràn đầy hy vọng, có khi "rầu thúi ruột" mà họ vẫn đùa. Những trắc trở trong tình yêu nhiều lúc được trào lộng hóa để ẩn giấu nỗi niềm của người trong cuộc:

"Thác ba năm thịt đã thành bùn
Đầu thai con chim nhạn đậu nhánh tùng chờ em"

Quả là "khối tình thác xuống tuyền đài chưa tan", nên chàng lại quyết tâm chờ tiếp ở kiếp sau cho đến khi nào nên duyên nên nợ. Kiên nhẫn đến thế là cùng!

Khi chàng trai cố gắng đến hết cách vẫn không cưới được người mình yêu, không biết trút giận vào đâu, bèn đổ lỗi cho một nhân vật tưởng tượng:

"Quất ông tơ cái trót
Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần
Biểu ông xe mối chỉ năm bảy lần, ổng không xe"

Thái độ quyết liệt trong tình yêu lắm lúc được thể hiện đầy ấn tượng. Anh chàng hay cô nàng trong câu ca dao dưới đây đã xem cái chết nhẹ như lông hồng. Thà chết còn hơn là lẻ bạn!

"Chẳng thà lăn xuống giếng cái "chũm"
Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với aỉ"

Có chàng trai thì quyết tâm đem tuổi thanh xuân gửi vào cửa Phật:

"Nếu mà không lấy đặng em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu"

Chàng vừa muốn tỏ lòng mình vừa muốn thử lòng người yêu. Và cô nàng cũng tỏ ra quyết tâm không kém. Chàng đi đến đâu nàng theo đến đó để thách thức cùng số phận:

"Tu đâu cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa"

Bằng câu đùa dí dỏm của mình, cô nàng đã làm nhẹ hẳn tầm nghiêm trọng của vấn đề trong tư tưởng anh chàng và cũng hóa giải tâm tư lo âu, phiền muộn của chàng - "Có gì đáng bi quan đến thế? Cái chính là em vẫn giữ vững lập trường" - đồng thời cũng hàm thêm chút chế giễu - "Mà có chắc là tu được không đấỷ".

Khi yêu, nhiều cô gái cũng mạnh dạn bày tỏ tình cảm của mình không kém các chàng trai.

"Phải chi cắt ruột đừng đau
Để em cắt ruột em trao anh mang về"

Không tiếc cả thân thể, sinh mạng của mình, nhưng cô gái chỉ... sợ đau, thật là một cái sợ đầy nữ tính rất đáng yêu. Hay khi chàng trai muốn liều mình chứng tỏ tình yêu, nhưng cũng lại "nhát gan" đến bật cười:

"Gá duyên chẳng đặng hội này
Tôi chèo ghe ra sông cái, nước lớn đầy... tôi chèo vô"

Tinh nghịch, hóm hỉnh những lúc đùa vui và cả những khi thất vọng, đó là vũ khí tinh thần của người lao động để chống chọi những khắc nghiệt của hoàn cảnh. Những chàng trai, cô gái đất phương Nam đã lưu lại trong lời ca câu hát cả tâm hồn yêu đời, ham sống, hồn nhiên của họ trên con đường khai mở vùng đất mới của quê hương tiếp nối qua bao thế hệ - Đó là tinh thần phóng khoáng, linh hoạt, dày dạn ứng biến của những con người "Ra đi gặp vịt cũng lùa; Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu"...

Cánh Diều Tuổi Thơ

Tuổi thơ ai hẳn cũng đã một lần rong chơi trên đồng cỏ, hồ hởi neo những cánh diều no gió chở ước mơ lang thang. Qua bao cánh đồng, bao luỹ tre làng thân thuộc, trò chơi hồn nhiên ấy đã thành nét văn hoá đẹp nhất trong ký ức hồn nhiên.

Không hồn nhiên sao được, khi giữa một chiều vàng thu rực rỡ, trên con đường đê chạy dài hay lối mòn nhỏ đan dọc ngang những ô ruộng bàn cờ, chợt lấp lánh xuất hiện trên bầu trời một cánh diều mảnh dẻ. Con diều nhỏ bay chấp chới, bỏ mặc cặp sách, vở bút trên vệ cỏ, người thả diều vừa rời trường làng. Lại cũng có đôi mắt trẻ tròn xoe dõi theo, la chí choé nếu cánh diều lạng đi không cất nổi mình trước gió. Đó là đám bạn lau nhau cùng đi chăn bò, chăn trâu. Trẻ con thuở ấy cũng chẳng khác là bao với đám trẻ bây giờ, vẫn hồn nhiên tinh nghịch, không kịp ca véo von dặn trâu như lời bà dạy trong truyện kể, vội vã đóng cọc, neo trâu vào một đám cỏ xanh. Con trâu ăn cỏ vòng quanh chiếc cọc. Còn cánh diều cứ vi vút mãi giữa trời. Diều liệng tròn, bay bổng, diều sà xuống thấp... hút hồn bao đôi mắt trẻ. Cánh diều thì mỏng manh lắm. Một vài thanh tre chuốt vụng, hai mặt giấy bồi cũng cuộn chỉ mẹ để dành may áo sang đông... đã có một cánh diều chở đầy tình yêu và sự sống.

Giữa không gian bao la, nếu bất chợt gặp một cánh diều bay trên trời cao, cánh diều công phu, nhiều màu, mô phỏng nhiều hình chim, bướm... hẳn sẽ càng bồi hồi như gặp lại người thân. Nhưng ngày nay, diều chim Lạc-Việt, diều trống đồng Đông Sơn, diều Tấm Cám, diều Thạch Sanh... dù đã bay trên bầu trời bè bạn năm châu, các nghệ nhân cũng không thể làm sống lại niềm háo hức hồn nhiên vừa thổi sáo, vừa cuốn diều của tuổi thơ trong trẻo. Cũng may, trên vệ cỏ bờ đê nào đó, trong lớp sương chiều mờ ảo, bọn trẻ vẫn còn biết quay những ống bơ lửa để ủ ấm ước mơ, để vụng về chắp cánh những thân diều

Ca Dao - Tình Yêu ở Việt Nam

Tình yêu vẫn luôn là một đề tài muôn thuở của văn học ở mọi giai đoạn. Nhắc đến những bài thơ tình ta không khỏi nhớ đến những nhà thơ lớn như: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận..., hay những nhà thơ thời nay như: Đỗ Trung Quân, Phan Thị Thanh Nhàn... Họ là những nhà thơ trong giai đoạn thơ văn hiện đạị Nhưng đã là người Việt Nam thì thật thiếu sót nếu ta không nhớ đến kho tàng văn chương truyền miệng của cha ông từ ngàn xưa để lại: Thơ ca dân gian.
Ta hãy quay về cội nguồn như tìm lại chính mình qua một khía cạnh của thơ ca dân gian: Ca dao Việt Nam. Chúng ta cùng nhìn lại những bài ca dao mang chủ đề về tình yêụ Đó là những vần thơ trữ tình, sâu sắc, đậm đà chất dân tộc và rất phổ biến trong dân gian mà có thể bạn đã từng nghe qua.

Ca dao là một dạng của thơ và ở thời đại nào nó cũng chinh phục được người đọc. Hơn nữa, những bài ca dao với nội dung về tình yêu không cứng nhắc với những niêm luật phức tạp như thơ cổ điển. Để hiểu rõ ràng hơn, đầu tiên ta thấy rằng tình yêu nam nữ trong ca dao được thể hiện rất trong sáng và lành mạnh:

Thuyền ai lơ lửng bên sông
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?

Ta thấy sự bài tỏ tình cảm tế nhị qua hình ảnh bến và thuyền:

Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Trong bước đầu đi đến tình yêu, đâu có ai trong chúng ta dễ dàng bày tỏ được tình cảm của mình một cách "xuôi chèo mát mái" đâu. Chỉ với hai câu ca dao ngắn gọn mà đã lột tả được sự ngập ngừng rất dễ thương đó:

Thò tay mà bứt cọng ngò
Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ

Ta tìm thấy trong ca dao Việt nam những hình ảnh nói lên tình cảm chân thật, sâu đậm của người dân:

Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.

Lòng chung thuỷ của người Việt Nam là một trong những nội dung tất yếu thể hiện qua ca dao:

Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa dày
Dù có xa nhau đi nữa cũng ba vạn chín nghìn ngày mới xa.

Lòng chung thuỷ sắt son cũng được thể hiện thật tuyệt vời như:

Chừng nào cho sóng bỏ ghành
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em.

Đặc điểm của ca dao Việt Nam là ngắn gọn, súc tích. Nó được hình thành bằng những hình ảnh, ngôn từ hết sức giản dị và chân thật gần gũi với đời sống người dân. Do đó, chỉ cần đọc qua ta có thể nhớ được dễ dàng nhưng có đọc đi đọc lại ta mới thấy hết được cái hay, cái đẹp của ca dao Việt Nam trong cách thể hiện nội dung:

Thương anh vô giá quá chừng
Trèo truông quên mệt ngậm gừng quên cay
Nhác trông thấy bóng anh đây
Ăn chín lạng hạt ớt ngọt ngay như đường.

Ca dao Việt Nam không phải là những lời thơ bóng bẩy, nó gợi lên những hình ảnh thiên nhiên gần gũi nên dễ dàng đi vào lòng người:

Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.

Bên cạnh đó, có những bài ca dao mà trong đó ta chỉ thấy niềm cảm thông và tình yêu cao thượng mà không thấy sự giận hờn hay trách móc:

Mình nói dối ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi xách nước rửa cho con mình.

Tất cả những mối tình không phải lúc nào cũng đi đến kết cục hạnh phúc. Trong một mối tình sẽ có nước mắt, hạnh phúc hay sự khổ đau khi chia xa và ca dao Việt Nam cũng không ngoài quy luật đó:

Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác xưa.

Hay là:

Chè non ai hái nửa nương
Cau non nửa chẽ người thương nửa chừng
Hai hàng nước mắt ngập ngừng
Thà rằng ngày trước ta đừng gặp nhau.

Như vậy đó, ca dao Việt Nam được hình thành và truyền từ đời này qua đời khác. Nó vẫn mang những nội dung không ngoài những quy luật của cuộc sống. Bằng những hình ảnh được nhân hoá, bằng phương pháp ẩn dụ khéo léo và tài tình, ca dao Việt Nam nói lên được những tâm tư tình cảm của người dân, những tình cảm mộc mạc, trong sáng và đậm đà tình nghĩa.

Trên đây chỉ là một số ít những câu ca dao nói về tình yêu trong thơ ca dân gian. Nếu có dịp, chúng ta sẽ nhắc đến những câu ca dao, tục ngữ nói về thiên nhiên, tình cảm gia đình hay về những kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.

Cho dù đi bất cư nơi đâu, ta vẫn cảm thấy tâm hồn thanh thản và ấm áp khi nghe lại những câu ca dao trong làng thơ ca dân gian Việt Nam.

Có dịp nhìn lại để chúng ta có dịp nhắc nhở nhau rằng thơ ca dân gian là một kho tàng vô giá của dân tộc Việt, một dân tộc anh hùng.

Bánh Phu Thê Của Người Việt

Được gói bằng những tấm lá dong giản dị, rồi luộc lên, bánh phu thê không khoe mùi tỏa hương như bánh rán, bánh khúc; chỉ tới khi bóc bánh đặt lên đĩa sứ người ta mới thật sự ngỡ ngàng.
Dưới lớp vỏ bánh sắc vàng trong suốt rắc lấm tấm những hạt vừng đen, nhân bánh hiện ra. Ngoài đậu xanh đãi sạch vỏ đã được hấp chín đánh tơi, người ta còn cho thêm đường trắng, cùi dừa, hạt sen và hương ngũ vị. Bột làm bánh phải được làm từ gạo nếp, xay bằng cối nước, sau đó lọc lấy chất tinh, ép cho ráo nước rồi phơi khô (còn bột thô thì bán cho hàng bánh rán). Tới khi làm bánh phải dùng nước quả dành dành nhào bột để lấy mầu sắc tự nhiên chứ không được pha phẩm mầu. Người ta còn nạo đu đủ xanh, ngâm phèn rồi cắt nhỏ nhào lẫn với bột để bánh có thêm độ giòn.

Khi ăn bánh ta sẽ thấy độ dẻo của nếp, độ giòn của đu đủ, độ ngậy của đậu xanh, vị béo của cùi dừa, vị bùi của hạt sen, vị ngọt của đường..., tất cả hòa quyện vào nhau làm thành hương vị rất riêng của bánh. Nhân bánh hình tròn nằm trong vỏ bánh bẻ khuôn hình vuông bằng lá dừa, như biểu tượng vuông tròn của triết lý âm dương. Người ta dàn mỏng bột lên khuôn, đặt nhân vào một đầu rồi đắp phần bột còn lại lên nhân như thể hiện sự ôm ấp, che chở của tình phu thê. Triết lý ngũ hành cũng được thể hiện một cách tinh tế qua năm mầu của bánh, đó là mầu trắng của bột lọc và cùi dừa, mầu vàng của dành dành và nhân đậu, mầu đen của hạt vừng, mầu xanh của lá, mầu đỏ của lạt buộc. Tất cả như biểu tượng cho sự hòa hợp của đất trời và con người. Lá gói bánh cũng là lá dong gói bánh chưng, nhưng phải làm kỹ hơn, sau khi rửa sạch lá để ráo nước người ta phải tước bớt cọng để khi gói bánh được mềm mại. Lá lót trong phải là lá chuối tây dẻo luộc chín hong khô chứ không được dùng lá chuối tiêu. Người ta còn quét lên lá một lớp mỡ để khi bóc bánh không bị dính, lại làm cho bánh có độ ngậy đặc trưng.

Mỗi nhà đều có một bí quyết làm bánh riêng vì vậy bánh của mỗi nhà đều có hương vị riêng, một nhãn hiệu riêng. Tất cả các khâu từ nhào bột, nặn bánh, làm nhân, tước lá, luộc bánh... đều phải làm thủ công, tốn nhiều nhân lực. Bánh gói xong được buộc dây rơm nếp, luộc xong, người ta tháo bỏ dây rơm, úp bụng hai chiếc bánh vào nhau rồi dùng lạt đỏ buộc thành cặp; có lẽ vì vậy mà người đời gọi là bánh phu thê.

Ngày nay kinh tế đã phát triển, mức sống đã cao hơn nhưng bánh phu thê vẫn là thứ bánh quý tộc được nhiều người ưa thích, ai đã một lần thưởng thức thì khó có thể nào quên.

Áo dài - Việt Nam

Một trong những vấn đề còn khá đau đầu cho giới nghiên cứu nghiêm túc là việc xác định thế nào là Truyền thống Việt nam, thế nào là Bản sắc văn hóa Việt nam. Tuy còn một vài nhận định chưa thống nhất, nhưng chắc chắn, chiếc Áo Dài là một bản sắc Việt Nam, và nó cũng đã phải trải qua những thăng trầm. Về chiếc áo này, Đàn Chim Việt xin chuyển đến các bạn cách nhìn của NORA LUTTMẺ, một nữ phóng viên trẻ chuyên viết cho các tờ báo lớn của Đức, một người đã vài năm nghiên cứu Văn hóa Việt Nam tại Hà nội, một người khá thạo tiếng Việt, và như lời chị tâm sự, "lúc nào cũng tương tư Việt Nam". Bài dưới đây đã được đăng trên tờ "Frankfurter Allgemein Zeitung"- một trong những nhật báo có uy tín nhất tại Cộng hòa Liên bang Đức Lấy dáng hình làm sự giái phóng
Từ khu nhà kiểu thuộc địa màu vàng trong khu Hà nội cổ, một đám mây trắng tỏa ra đường phố. Dưới những cánh hoa phượng đỏ rực màu lửa, hàng chục tà lụa phấp phới đầy gợi cảm. Đó là Áo Dài- đồng phục của những cô học trò. Giờ học đã tan, các cô gái cùng với những chiếc xe đạp rỉ hoen, rúc rích hòa vào dòng chảy hỗn độn của người đi bộ, của xích lô và xe máy. Trong cái đám đông đó, cô gái ngồi trước, lưng thẳng như một cây nến, cánh tay cong cong, điệu nghệ và duyên dáng điều khiển chiếc xe đạp. Cô gái ngồi sau, chân bắt chéo, theo đúng phong dáng của một tiểu thự Xe máy bóp còi inh ỏi lao đi trên đường phố ngập người; trên những chiếc Honda, những thiếu phụ trẻ lao vùn vụt qua đám nữ học trò. Găng tay kín mít để che tránh màu nâu đáng sợ, mũ cói sùm sụp để ngăn ánh mặt trời. Và cả họ nữa cũng mang theo những tà Áo Dài trong đủ sắc màu - đỏ, vàng, xanh lá cây, hay rực rỡ cánh hoạ Đám đàn ông dõi mắt nhìn theo. Vì ánh mắt bị phân tán như vậy, mà lắm khi xe cộ đâm nhau. Lý do đơn giản là Áo Dài che đậy tất cả, mà lại chả giấu giếm tý gì: phía trên, như một lớp da thứ hai, dán chặt vào bộ ngực và cánh tay. Cổ được tôn lên bởi một vòng cổ áo đứng. Và từ thắt lưng trở xuống, được xẻ làm đôi, tà áo nhẹ bay, uốn lượn tới gần đầu gối. Dưới đó là chiếc quần rộng, một màu. Mặc cho cặp dép cao gót không thể thiếu, chiếc quần vẫn phủ kín đôi chân và khẽ chạm đất cùng mỗi bước đị
Áo Dài tô đậm thêm những ý tưởng về người con gái Việt nam hiền dịu, luôn sẵn mỉm cười. Không có một bộ phim chiến tranh nào của Mỹ mà lại thiếu bóng dáng những cô gái yêu kiều trong chiếc Áo Dài làm mê mẩn biết bao người lính. Tất cả những phim phóng sự về Đông dương đều không thể bỏ qua hình ảnh những nữ sinh với tà Áo Dài trắng, ít nhất cũng là trong đoạn dạo đầu. Và ngay cả Việt nam hiện thực cũng không thể thiếu những người phụ nữ duyên dáng với chiếc Áo Dài trong ngày lễ lạt, dù là đám cưới, hội làng, hay là đám tang. Áo Dài là trang phục dân tộc của người phụ nữ Việt nam, nhưng không phải là một thứ áo quần truyền thống. Kiểu cách Áo Dài đã được một nhà tạo mốt của Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà nội phác thảo mãi vào những năm 30 của Thế kỷ 20.
Cho đến tận thế kỷ 17, phụ nữ Việt nam-nông dân cũng như công chúa, đều mặc váy dài. Thực ra, vào thế kỷ 15, bộ máy đô hộ Trung Quốc vẫn còn tìm đủ mọi cách để người Việt nam phải theo mốt Trung Hoa- với những chiếc quần cho đàn bà. Nhưng chỉ từ thế kỷ 18, giới phụ nữ quý tộc mới bắt đầu chấp nhận cái cách diện Phương Bắc này. Dưới những nếp quần thùng thình và chiếc áo cánh dài phấp phới, từ đó, họ che giấu hết thân thể của mình, đúng như lời răn dạy Khổng giáo của giai cấp thống trị. Giới phụ nữ trong đám thường dân thì mãi đến đầu thế kỷ 19 mới chịu làm quen với chiếc quần, và phải do một sự cưỡng bức. Vua Minh Mạng, một người theo đuổi mẫu hình nhà nước theo Hoàng đế Trung Hoa, công bố lệnh mọi người phải mặc quần. Với những bài dân ca, người phụ nữ nông thôn biểu lộ sự bất bình:
Tháng Tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.

Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải lột quần chồng sao đang!

Có quần ra quán bán hàng,
Không quần ra đứng đầu làng trông qua .
Mặc cho mọi phản ứng, cuối cùng Minh Mang cũng thành công. Người phụ nữ nông dân phải thay váy bằng quần. Nhưng giáo lý Khổng tử- cùng với những lễ nghi mà nhà vua mong mỏi, vẫn không thấm được vào quần chúng. Ngược với những luân lý triều đình, người phụ nữ nông dân vẫn xắn cao quần khi làm ruộng và khoe đùi chẳng một chút thẹn thùng. Đối với họ, chỉ có phần ngực là phải kiêng kỵ. Vì vậy, họ đeo yếm ôm chặt lấy bầu vú. Bên ngoài, họ mặc một chiếc áo rộng tà với tay áo bó. So với quần áo đàn ông, trang phục của người phụ nữ hầu như chẳng có gì khác biệt.
Chỉ đến khi Áo Dài- với đặc tính tôn hình thể, xuất hiện, thì cái sự trang phục đơn điệu này mới cáo chung. Mốt mới này có thể được coi là một cuộc cách mạng- những tạp chí phụ nữ Việt nam quảng cáo như vậy. Giải phóng phụ nữ với sự trợ giúp của Mốt. Giới phê phán thì phẫn nộ với dáng hình mời mọc của những mệnh phụ đứng đắn. Lờ tịt đám người này, năm 1936, nữ nhà báo Cô Duyên lớn tiếng kêu gọi sự giải thoát khỏi những bó buộc trang phục truyền thống :"Cái thiêng liêng giả tạo mang tính đạo đức cổ hủ đã nhắm mắt trước vẻ đẹp phần trên của phụ nữ. Tên gọi của nó là: Bộ ngực của đàn bà có thể làm đỏ mặt bất kỳ một tinh thần phẩm hạnh và bất kỳ một người con gái gia đình tử tế nào (...) Người ta muốn rằng, người đàn bà phải che đậy tất cả: Người nào có bộ ngực phẳng lỳ, thì được coi là đạo đức, và theo một thứ luân lý dở hơi thì cặp vú- thực ra là bộ phận tuyệt mỹ nhất của người đàn bà, lại là phần cơ thể bị công kích đầu tiên. Thời nay đã khác: Chúng ta dám phát minh. Bây giờ chúng ta dễ thở hơn. Và nếu vẻ đẹp tự nhiên của chúng ta làm vẩn mắt các nhà đạo đức, thì đó thực là nỗi bất hạnh của họ."
Thế là vào những năm 30, người phụ nữ thành phố tân thời mang chôn đi bộ trang phục đã giam kín thân thể của mình. Ở làng quê thì khác: nơi đây, hoàn cảnh kinh tế gia đình ngăn cấm mọi thứ mốt mới. Thêm vào đó, Áo Dài có vẻ như hoàn toàn không phù hợp với lao động chân tay. Do vậy, những người cộng sản cũng đã nguyền rủa Áo Dài là một thứ trang phục phong kiến. Ở phía Bắc đất nước, Áo Dài nhanh chóng biến mất sau khi ông Hồ Chí Minh đánh thắng thực dân Pháp vào năm 1954; ở phía Nam, nó chỉ mất đi sau sự thống quyền cộng sản năm 1975.
Ngày nay, Áo Dài đang đi trên một chặng đường hoa lá mới. Từ ngày mở cửa Việt nam cuối những năm 80, nữ sinh, nữ nhân viên ngân hàng, nữ công chức bưu chính lại thong thả dạo chơi trong những cánh Áo Dài. Trong đám cưới, Áo Dài cũng dần dần thay thế những lòa xòa của bộ áo cưới đăng-ten; và trong những lễ hội thôn quê, nó cũng hơn hẳn T-Shirt và Jeans. Ngay cả phông biển các văn phòng du lịch nhà nước cũng phải dùng Áo Dài trong quảng cáo. Và những nhà cắt may luôn thử nghiệm ra những Modell mới. Mẫu hình thay đổi, phong cách đổi thay. Xu thế thời thượng hiện nay: Vải dệt của các sắc dân thiểu số. Dưới những năm dài trong ý thức hệ cộng sản, loại chất liệu này- cũng như Áo Dài, đã có một thời biến mất. Giờ đây, chúng ca khúc khải hoàn như là một biểu tượng cho nền văn hóa phong phú của Việt nam.